Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mikhail Tal”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Pexea12 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Pexea12 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 43:
==Nhà Vô địch Thế giới==
 
Tal vô địch một giải đấu rất mạnh tại [[Zürich]] năm [[1959]]. Sau giải [[Interzonal]], các kỳ thủ hàng đầu tiếp tục với giải [[Candidates]] ở [[TiệpNam Khắc]] năm [[1959]]. Tal thể hiện phong độ vượt trội của mình khi dành tới 20/38 điểm, vượt qua [[Paul Keres]] với 18½ điểm, theo sau bởi [[Tigran Petrosian]], [[Vasily Smyslov]], [[Bobby Fischer]], [[Svetozar Gligorić]], [[Friðrik Ólafsson]] và [[Pal Benko]]. Chiến thắng của Tal phần lớn là trước các kỳ thủ ở nửa dưới.<ref>{{Cite document
| last=Horowitz | first=Al | author-link=Israel Albert Horowitz
| year=1973 | title=The World Chess Championship, A History
Dòng 80:
Tal tham dự 21 [[Giải Vô địch Cờ vua Liên Xô]]. Trừ trận chung kết [[1983]] khi Tal phải bỏ cuộc sau 5 trận, Tal đã vô địch 6 lần (1 kỉ lục mà chỉ có Tal và Botvinnik đạt được) và các năm 1957, 1958, 1967, 1972, 1974, 1978. Ông cũng là người vô địch 5 lần tại các giải đấu ở [[Tallinn]], [[Estonia]] vào các năm 1971, 1973, 1977, 1981 và 1983.
 
Tal cũng rất thành công với [[cờ chớp]]. Năm [[1970]], ông đúng thứ 2 sau Fischer, người đạt 19/22 trong một giải cờ chớp ở [[Herceg Novi]], [[TiệpNam Khắc]], vượt qua Korchnoi, Petrosian và Smylov. Năm [[1988]], khi 51 tuôi, ông giành vô địch [[Giải Vô địch Cờ chớp Thế giới]] lần thứ hai (Kasparov vô địch giải lần đầu ở [[Brussels]]) ở [[Saint John]], [[New Brunswick]], vượt qua Kasparov - đương kim vô địch thế giới và [[Anatoly Evgenyevich Karpov|Anatoly Karpov]] - cựu vô địch thế giới. Trong trận chung kết, ông đánh bại [[Rafael Vaganian]] với tỉ số 3½–½.
 
Vào [[28 tháng 5]] năm [[1992]], tại giải Cờ chớp ở [[Moscow]] (ông đã phải xuất viện để tham gia), ông đánh bại Kasparov. Ông mất một tháng sau đó.