Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ôn Đình Quân”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n r2.7.1) (Bot: Thêm simple:Wen Tingyun |
n clean up, replaced: {{reflist}} → {{Tham khảo}} using AWB |
||
Dòng 4:
'''Ôn Đình Quân''' là người đất Kỳ, phủ Thái Nguyên (nay là huyện Kỳ, tỉnh [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây)]], là cháu nội của Ôn Ngạn Bác, tể tướng triều [[Đường Cao Tông]].
Ông thông minh, giỏi văn thơ, âm nhạc<ref>
Có một thời, ông hay lui tới nhà quan tướng quốc Lệnh Hồ Đào (con Lệnh Hồ Sở), nhưng sau vì việc riêng, Hồ Đào đâm ra ghét ông <ref>
Đến khi người ông quen là Từ Thương đi trấn giữ [[Tương Dương]], ông được theo làm tuần quan, nhưng rồi vì bất đắc chí, ông xin thôi chức để sống đời phiêu lãng.
Dòng 16:
*'''Hán Nam chân cảo'''
*'''Ốc Lan tập''' (đã thất truyền)
*'''Kim Thuyên tập'''
*'''Thi tập'''
Ngoài ra, ông còn viết '''Học hải''', '''Thái trà lục''', và '''Càn toản tử'''.
==Nhận xét khái quát==
Trước đây, người ta thường coi [[Lý Thương Ẩn]] và Ôn Đình Quân là hai nhà thơ cùng một phái, và gọi là “Ôn Lý”. Song, theo các nhà nghiên cứu văn học gần đây, thì gọi như thế có phần không chính xác, vì phong cách nghệ thuật của hai ông rất khác nhau. Về thành tựu thơ ca, Ôn Đình Quân còn kém xa Lý Thương Ẩn, vì thơ ông có phần "phù phiếm, nông cạn, thiếu những tình cảm chân thành"; nhưng nói về [[từ]] thì ông có nhiều bài rất đặc sắc.
Từ của Ôn Đình Quân hiện còn hơn 70 bài trong ''Kim thuyên tập'', nội dung hầu như đều viết về phụ nữ, về những mối sầu tương tư; và lấy màu sắc nồng đượm, lời lẽ hoa mỹ, tạo thành phong cách “thơm tho mềm mại, tràn ngập hương vị son phấn” của riêng ông. Phong cách này có ảnh hưởng đến các nhà làm từ đời sau, hình thành “Phái trong hoa” (Hoa gian phái) mà ông được tôn vinh là người đứng đầu <ref>
Cho nên khi nói về [[từ]] đời [[nhà Đường|Đường]], học giả [[Nguyễn Hiến Lê]] cũng đã có lời khen ngợi từ của ông như sau:
:''Từ Ôn Đình Quân rất diễm lệ, lại sáng tác được nhiều điệu mới, ảnh hưởng đến đời sau rất nhiều. Ông đứng đầu trong nhóm từ gia có tác phẩm chép trong bộ "Hoa gian tập". Ông chiếm một địa vị đặc biệt ở giữa cái thời thơ suy mà từ thịnh <ref>
==Trích tác phẩm==
Dòng 46:
:''Mào hoa, lông biếc, gà kia,
:''Cạnh tường lên tiếng trước khi sáng ngày.
:''Cửa song ả Tạ <ref>
:''Chàng Tiêu <ref>
:''Rạng đông sao nhỏ lặn dần,
:''Khói êm trăng xế, bóng ngân dưới lầu.
Dòng 53:
:''Dọc đê dưới liễu rầu rầu buông roi<ref>[[Trần Trọng Kim]], ''Đường thi''. NXB Tân Việt, 1974, tr. 280.</ref>.
|
:'''Canh lậu tử''' (kỳ 2)
:Phiên âm Hán-Việt:
:Tinh đẩu hy,
:Chung cổ yết,
:Liêm ngoại hiểu oanh tàn nguyệt.
:Lan lộ trọng,
:Liễu phong tà,
:Mãn đình đôi lạc hoa.
:Hư các thượng,
:Ỷ lan vọng,
:Hoàn tự khứ niên trù trướng.
:Xuân dục mộ,
:Tứ vô cùng,
:Cựu hoan như mộng trung.
:Dịch nghĩa:
:''Tinh đẩu thưa
:''Chuông trống bặt
:''Ngoài chái trăng tà oanh hót
:''Lan sương trĩu
:''Liễu gió bay
:''Hoạ rụng trước sân đầy
:''Trên gác tía
:''Lan can tựa
:''Vẫn giống năm qua mắc mớ
:''Xuân chừng muộn
:''Tứ bơ vơ
:''Việc dài tựa giấc mơ.
|}
==Sách tham khảo chính==
*[[Nguyễn Hiến Lê]], ''Đại cương văn học sử Trung Quốc'' (trọn bộ). Nhà xuất bản Trẻ, 1997.
* Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc biên soạn, ''Lịch sử văn học Trung Quốc (Tập II)'', Bản dịch do Nxb Giáo dục [[Việt Nam]] ấn hành năm 1993.
*Dịch Quân Tả, ''Văn học sử Trung Quốc'' (Quyển I. Bản dịch từ tiếng [[Trung Quốc]] của GS. Huỳnh Minh Đức). Nhà xuất bản Trẻ, 1992.
== Chú thích ==
{{
{{Thời gian sống|Sinh=813|Mất=870}}
[[Thể loại:Người Sơn Tây (Trung Quốc)]]
[[Thể loại:Người nhà Đường]]
|