Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người Buryat”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n r2.7.3) (Bot: Thêm lez:Бурятар |
n clean up, replaced: |left| → |trái|, [[File: → [[Tập tin: (3), {{Reflist}} → {{Tham khảo}} using AWB |
||
Dòng 1:
{{Infobox ethnic group
|group=Buryat
|image=[[
|image=[[
|caption=The [[Selenge River|Selengyin]] Buryats, (c. 1900)
|poptime=~500.000
Dòng 30:
==Lịch sử==
Người Buryat có nguồn gốc từ người Eskimo Siberi định cư ở khu vực [[hồ Baikal]]. Sau đó, vào thế kỷ 13, người Mông Cổ đến và nô dịch hóa các bộ lạc Buryat quanh hồ Baikal. Tên gọi "Buriyad" được kể đến là một trong những dân tộc sống trong rừng lần đầu trong ''[[Mông Cổ bí sử
[[
Về mặt lịch sử, lãnh thổ quanh hồ Baikal thuộc về người Khalkha và dân tộc bản địa (Eskimo Siberi), người Buryat là thần dân của hai hãn người Khalkha là Tusheet và Setsen. Khi Nga mở rộng kiểm soát đến [[Ngoại Baikal]] (miền đông Siberia) vào năm 1609, [[người Cozack]] chỉ tìm thấy một nhóm nhỏ cư dân bản địa nói một phương ngữ Mông Cổ gọi là Buryat và phải cống nạp cho người [[Khalkha]].<ref>University of Pittsburgh. University Center for International Studies, Temple University-Russian history: Histoire russe, p. 464</ref> Tuy nhiên, họ đã đủ mạnh để bắt ép [[người Ket]] và người Samoyed tại Kan và [[người Evenk]] tại Hạ Angara cống nạp cho họ. Tổ tiên của phần lớn người Buryat hiện đại nói một biến thể ngôn ngữ Turk-Tungus vào thời điểm đó.<ref>Bowles, Gordon T. (1977). ''The People of Asia'', pp. 278–279. Weidenfeld and Nicolson, London. ISBN 0-297-77360-7.</ref> Ngoài ra chính các bộ tộc Buryat-Mông Cổ (Bul(a)gad, Khori, Ekhired, Khongoodor) đã hợp nhất với người Buryat, người Buryat cũng đồng hóa các nhóm khác, bao gồm một số [[người Oirat]], [[Khalkha]], Tungus ([[người Evenk]]). Khori-Barga đã thiên di từ Barguzin về phía đông đến vùng đất giữa [[Đại Hưng An Lĩnh]] và Argun. Khoảng năm 1594 hầu hết họ quay trở lại Aga và Nerchinsk để thoát khỏi sự chinh phục của [[người Daur]]. Lãnh thổ và dân tộc này chính thức bị sáp nhập vào Nga bằng các điều ước vào các năm 1689 và 1727, khi đó các lãnh thổ ở cả hai bên [[Hồ Baikal]] bị tách khỏi [[Mông Cổ]] của [[nhà Thanh|Đại Thanh]]. Sự hợp nhất các bộ tộc và nhóm Buryat hiện đại đã diễn ra dưới tình trạng là một phần của nước Nga. Từ giữa thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, dân số người Buryat tăng từ 27.700 lên 300.000.<ref>[http://www.nupi.no/cgi-win/Russland/etnisk_b.exe?Buryatian Buryats]</ref>
Dòng 42:
==Chú thích==
{{
==Đọc thêm==
|