Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mèo rừng châu Phi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
GrouchoBot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.2) (Bot: Thêm gl:Felis silvestris lybica
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: |thumb| → |nhỏ| (2), |left| → |trái|, [[File: → [[Tập tin: (2), {{reflist}} → {{Tham khảo}} using AWB
Dòng 19:
 
==Đặc điểm hình thái==
[[FileTập tin:Sylvestrislybicaskull.png|thumbnhỏ|lefttrái|Sọ mèo rừng châu Phi.]]
Mèo rừng châu Phi có bộ lông màu nâu hoặc vàng xám với những vằn đen trên đuôi. Lông của chúng ngắn hơn của phân loài [[mèo rừng châu Âu]] và kích cỡ của chúng cũng nhỏ hơn nhiều: chiều dài đầu và thân chỉ dài từ 45–75 cm (17,7-29,5 inch), chiều dài đuôi chừng 20–38 cm (7,87-15 inch) và cân nặng dao động trong khoảng 3-6,5 kg (6,61-14,3 lb).
 
Dòng 29:
 
==Nguồn gốc phân loài==
[[FileTập tin:Stamp of Azerbaijan 275.jpg|thumbnhỏ|Mèo rừng châu Phi trên một con tem năm 1994 của [[Postage stamps and postal history of Azerbaijan|Azerbaijan]]]]
Theo một nghiên cứu trên [[ADN ti thể]] của 979 con mèo nhà và mèo rừng châu Âu, châu Phi, châu Á, mèo rừng châu Phi ''Felis silvestris lybica'' tách khỏi phân loài [[mèo rừng châu Âu]] ''Felis silvestris silvestris'' vào khoảng 173.000 năm trước đây và khỏi các phân loài mèo rừng ''F. s. ornata'' và ''F. s. cafra'' chừng 131.000 năm trước đây. Khoảng 10.000 năm về trước, một vài cá thể ''Felis silvestris lybica'' được thuần hóa ở [[Trung Đông]]. Mèo nhà hiện đại bắt nguồn từ ít nhất 5 cá thể tổ tiên chung. Không có bất cứ phân loài nào của mèo rừng ''Felis silvestris'' đóng góp di truyền vào nòi mèo nhà, và nhiều gien ti thể của các nòi này đang trộn lẫn với gien của mèo nhà do quá trình giao phối với [[mèo hoang]].<ref name="Science"/> Hiện nay, chỉ có một tổ chức duy nhất hoạt động với mục tiêu bảo tồn nguồn gien của mèo rừng, đó là [[Alley Cat Rescue]].
 
Dòng 36:
 
==Chú thích==
{{reflistTham khảo}}
 
==Liên kết ngoài==