Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Horten Ho 229”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: |thumb| → |nhỏ| (4), [[File: → [[Tập tin: (4), {{Reflist}} → {{Tham khảo}} using AWB
Dòng 22:
'''Horten H.IX''', [[Hệ thống định danh máy bay của RLM|tên định danh của RLM]] '''Ho 229''' (thường được gọi là '''Gotha Go 229''' theo cách định danh của nhà sản xuất) là một mẫu thử [[máy bay tiêm kích]]/ném bom do [[Anh em nhà Horten|Reimar và Walter Horten]] thiết kế và hãng [[Gothaer Waggonfabrik]] chế tạo vào cuối [[Chiến tranh Thế giới II]]. Đây là loại máy bay ‘’flying wing’’ (thân cánh liền khối) đầu tiên được trang bị một động cơ phản lực<ref name = "WOTR">Green 1970, p. 247.</ref>.
 
Mẫu thiết kế này do đích thân [[Thống chế Đế chế (Đức)|Thống chế Đế chế]] (''Reichsmarschall'') [[Hermann Göring]] tư lệnh của [[Luftwaffe]] phê chuẩn, nó là mẫu máy bay duy nhất gần đáp ứng được yêu cầu của Göring về các yêu cầu hiệu năng "3x1000", cụ thể là mang được những quả bom nặng 1000&nbsp;kg, có tầm hoạt động 1000&nbsp;km với vận tốc 1000&nbsp;km/h. Trần bay của nó đạt 15.000 mét (49.213 &nbsp;ft) .<ref name= "Boyne p.325">Boyne 1994, p. 325.</ref>
 
Trong những năm gần đây, thiết kế kiểu flying wing đã trở nên phổ biến, kiểu thiết kế này được miêu tả như là kiểu máy bay đầu tiên kết hợp những gì được gọi là công nghệ tàng hình.<ref name="Myhra p. 11"/> Nhưng trong trường hợp của Ho 229 tì không phải, mục đích chính của anh em nhà Horten là tạo ra một chiếc máy bay có thể triệt tiêu lực cản càng nhiều càng tốt, do đó họ sử dụng thiết kế flying wing. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm thu được với các mẫu tàu lượn không đuôi được thử nghiệm từ giữa thập niên 1930. Tuy nhiên, khả năng chống radar không phải là một ý định trong thiết kế ban đầu.
Dòng 29:
Vào đầu những năm 1930, [[anh em nhà Horten]] đã quan tâm tới những thiết kế kiểu flying wing và coi đây là một phương pháp để cải thiện hiệu suất của các tàu lượn. Chính phủ Đức đã tài trợ cho các câu lạc bộ tàu lượn vào thời điểm đó do việc sản xuất máy bay quân sự và thậm chí là các máy bay có động cơ đã bị cấm theo các điều khoản của [[Hiệp ước Versailles]] sau [[Chiến tranh Thế giới I]]. Các bố trí flying wing loại bỏ bất kỳ bề mặt ‘”không cần thiết” nào và theo lý thuyết thì nó sẽ gây ra ít lực cản nhất. Cấu hình chỉ có cánh cho phép tàu lượn có hiệu suất tốt hơn, nó có cánh ngắn hơn do đó chắc chắn hơn, và sẽ không tăng thêm lực kéo vào khung thân. Kết quả của các nghiên cứu đó là [[Horten H.IV]].
 
Năm 1943, Thống chế Göring đã ban hành một yêu cầ đối với các đề xuất thiết kế để sản xuất một máy bay ném bom có khả năng mang một trọng tải 1.000 &nbsp;kg (2.200 &nbsp;lb) có tầm hoạt động 1.000 &nbsp;km (620 dặm) với vận tốc 1.000 &nbsp;km/h (620 &nbsp;mph), và gọi là ‘’Đề án 3 X 1000’’. Các máy bay ném bom thông thường của Đức có thể tấn công tới các trung tâm chỉ huy của quân Đồng minh ỏa Anh, nhưng bị thiết hại nghiêm trọng khi gặp phải các máy bay tiêm kích của quân đồng mình. Vào thời điểm đó, không có cách nào để đáp ứng các mục tiêu đó&nbsp;— động cơ phản lực [[Junkers Jumo 004|Junkers Jumo 004B]] mới có thể đáp ứng yêu cầu về vận tốc, nhưng có mức tiêu thụ nhiên liệu quá lớn.
 
Anh em nhà Horten kết luận rằng thiết kế flying wing có lực kéo thấp có thể đáp ứng tất cả các yêu cầu trên: bằng cách giảm lực cản, công suất hành trình có thể giảm xuống tới điểm đáp ứng được yêu cầu về tầm hoạt động. Họ đã trình ra đề án tư nhân của mình là '''H.IX''' là cơ sở cho mẫu máy bay ném bom mới. Bộ Hàng không Đế chế (''Reichsluftfahrtministerium'') đã phê chuẩn đề xuất của anh em Horten, nhưng yêu cầu phải bổ sung thêm 2 khẩu pháo 30&nbsp;mm, do họ cảm thấy máy bay cũng sẽ hữu ích như một chiếc tiêm kích do tốc độ cực đại ước tính cao hơn đáng kể so với bất kỳ máy bay nào của quân Đồng minh.
Dòng 42:
 
Tháng 9/1944 mẫu thử thứ hai là H.IX V2 trang bị động cơ Junkers Jumo 004 đã được hoàn thành; theo kế hoạch nó sẽ được trang bị động cơ BMW 003, nhưng không được thực hiện. Göring tin tưởng vào thiết kế và ra lệnh cho Gothaer Waggonfabrik sản xuất 40 chiếc với tên định danh RLM là ‘’’Ho 229’’’, mặc dù nó chưa thực hiện các chuyến bay sử dụng động cơ phản lực. Chuyến bay đầu tiên của H.IX V2 diễn ra ở [[Oranienburg]] vào ngày 2/2/1945.
 
 
Tất cả các chuyến bay thử nghiệm và việc phát triển tiếp sau đó được Gothaer Waggonfabrik thực hiện. Vào thời gian này, anh em Horten đang làm việc với [[Amerika Bomber]] và không tham dự chuyến bay thử nghiệm đầu tiên. Phi công thử nghiệm là ''Leutnant'' Erwin Ziller. 2 chuyến bay thử nghiệm khác đã được thực hiện từ ngày 2 tới 18/2/1945. Một phi công thử nghiệm khác điều khiển máy bay là Heinz Scheidhauer.
Hàng 48 ⟶ 47:
Các báo cáo thử nghiệm H.IX V2 cho thấy máy bay có khả năng xử lý rất tốt, chỉ hơi mất ổn định bên (một thiếu hụt điển hình của máy bay không đuôi). Trong chuyến bay thử nghiệm thứ hai thành công thì bộ bánh đáp đã bị hư hại nặng khi hạ cánh do Ziller đã mở dù hãm quá sớm khi tiếp đất. Có những báo cáo nói rằng trong một số chuyến bay thử nghiệm, H.IX V2 đã thực hiện một số mô phỏng ‘’hỗn chiến’’ với một chiếc [[Messerschmitt Me 262]], và chiếc H.IX V2 đã tỏ ra vượt trội so với Me 262.
 
Hai tuần sau, vào ngày 18/2/1945, thảm họa đã xảy ra trong chuyến bay thử nghiệm thứ 3. Ziller cất cánh không gặp bất kỳ vấn đề nào để thực hiện một loạt thử nghiệm bay. Sau khoảng 45 phút, ở độ cao 800 m, một chiếc động cơ phản lực Jumo 004 đã xảy ra vấn đề, nó bốc cháy và ngừng hoạt động. Ziller đã nhìn thấy và điều khiển máy bay bổ nhào và kéo lên nhiều lần để tái khởi động động cơ và bảo vệ mẫu thử quý giá.<ref name="ng">[http://news.nationalgeographic.com/news/2009/06/090625-hitlers-stealth-fighter-plane.html "Hitler's Stealth Fighter Re-created."] ''National Geographic'', 25 June 2009. Retrieved: 6 July 2009.</ref> Ziller đã thực hiện một loạt động tác quay 360 độ với cánh nghiêng 20 độ. Ziller không sử dụng đài vô tuyến của mình hay phóng ra khỏi máy bay, anh ta đã có thể bị bất tỉnh do khói từ động cơ phát ra. Chiếc máy bay rơi ngay bên ngoài sân bay. Ziller bị ném ra khỏi máy bay và chết do vết thương 2 tuần sau đó. Mẫu thử đã bị phá hủy hoàn toàn.<ref name="ng">[http://news.nationalgeographic.com/news/2009/06/090625-hitlers-stealth-fighter-plane.html "Hitler's Stealth Fighter Re-created."] ''National Geographic'', 25 June 2009. Retrieved: 6 July 2009.</ref>
 
[[FileTập tin:HortenHo229 unloading.jpg|thumbnhỏ|Một chiếc Horten Ho 229 V3 đang được bốc dỡ tại Mỹ]]
Dù gặp phải thất bại này, nhưng đề án vẫn tiếp tục hoạt động. Ngày 12/3/1945, Ho 229 được gộp vào [[Chương trình Tiêm kích Khẩn cấp]] (''Jäger-Notprogramm'') để tăng tốc sản xuất, người Đức coi nó là một loại vũ khí kì diệu cần được sản xuất với số lượng lớn. Xưởng sản xuất mẫu thử được chuyển tới Gothaer Waggonfabrik (Gotha) ở [[Friedrichroda]]. Cũng trong tháng 3, mẫu thử thứ ba được bắt đầu chế tạo có tên gọi là Ho 229 V3.
 
Hàng 63 ⟶ 62:
 
==Công nghệ tàng hình==
[[FileTập tin:Horten229-SDASM.jpg|thumbnhỏ|Bản sao tại Bảo tàng Hàng không và Không gian San Diego]]
 
===Sự hồi sinh từ Northrop ===
Sau chiến tranh, Reimar Horten cho biết ông đã pha trộn bụi than với keo dán gỗ để hấp thụ sóng điện từ (radar), ông tin rằng bằng cách đó có thể giúp máy bay không bị hệ thống radar cảnh báo sớm [[Chain Home]] của Anh phát hiện.<ref>[http://channel.nationalgeographic.com/episode/hitler-s-stealth-fighter-3942/Overview24#tab-time-line "Flying under the Radar: A History of Stealth Planes."] ''National Geographic Channel,'' 2009. Retrieved: 6 November 2010.</ref> Thiết kế flying wing trang bị động cơ phản lực như Horten Ho 229 sẽ có mặt cắt phản xạ radar nhỏ hơn so với các mẫu máy bay 2 động cơ thông thường. Điều này là bởi vì với đôi cánh liền thân, sẽ không có cánh quạt lớn hoặc bề mặt đuôi đứng và ngang lớn.<ref name="Myhra p. 11">Myhra 2009, p. 11.</ref><ref name = "ng">[http://news.nationalgeographic.com/news/2009/06/090625-hitlers-stealth-fighter-plane.html "Hitler's Stealth Fighter Re-created."] ''National Geographic,'' 25 June 2009. Retrieved: 6 July 2009.</ref>
 
Các kỹ sư của Tập đoàn [[Northrop-Grumman]] từ lâu đã quan tâm tới ho 229, một vài người trong số đó đã tới thăm cơ sở của Bảo tàng Smithsonian ở [[Silver Hill, Maryland]] vào đầu thập niên 1980 để nghiên cứu khung thân của V3. Một nhóm các kỹ sư của Northrop-Grumman đã làm các thử nghiệm điện từ trên phần mũi hình nón trung tâm nhiều tầng bằng gỗ của V3. Phần hình nón này dày 19 &nbsp;mm và tạo thành một lớp vỏ ngụy trang mỏng. Nhóm đi tới kết luận rằng nhờ một số dạng phần tử dẫn điện trong keo mà tín hiệu radar đã bị chậm lại một cách đáng kể khi đi qua mặt nón.<ref name="Myhra p. 11"/>
 
Đầu năm 2008, Northrop-Grumman kết hợp với nhà sản xuất phim tài liệu Michael Jorgensen và [[National Geographic Channel]] sản xuất một phim tài liệu để xác định xem liệu Ho 229 trong thực tế có phải là một máy bay tiêm kích-bom ‘’tàng hình’’ thực sự đầu tiên trên thế giới hay không.<ref name="Myhra p. 11"/> Northrop-Grumman chế tạo một phiên bản sao chép đúng kích cỡ của V3, kết hợp với một hỗn hợp keo dán giống như nguyên bản ở phần mũi. Với chi phí 250.000 USD và 2.500 giờ lao động, chiếc Ho 229 của Northrop đã hoàn thành và được thử nghiệm diện tích phản xạ radar (RCS) tại [[Tejon, California]], mẫu Ho 229 này được đặt trên một khớp nối cực 15 met (50&nbsp;ft) và tiếp xúc với các nguồn năng lượng điện từ có góc độ khác nhau, sử dụng 3 tần số trong khoảng 20–50 &nbsp;MHz mà hệ thống Chain Home đã từng dùng vào giữa thập niên 1940.<ref name="Myhra p. 11"/>
 
Thử nghiệm RCS với giả thiết chiếc Ho 229 tiếp cận bờ biển Anh từ Pháp ở vận tốc 885&nbsp;km/h (550&nbsp;mph) trên độ cao 15–30 met (50–100&nbsp;ft) so với mực nước biển có thể bị phát hiện ở khoảng cách 80% so với một chiếc [[Messerschmitt Bf 109|Bf 109]]. Điều này có nghĩa là RCS của Ho 229 chỉ bằng 40% so với một chiếc Bf 109. Những phần dễ bị phát hiện nhất của máy bay là lối vào của không khí và buồng lái, nhưng chúng sẽ không gây trở ngại khi so với bước sóng CH.<ref name="Myhra p. 11"/> Tuy nhiên, vận tốc kết hợp với lợi thế có 20% đặc tính tàng hình sẽ làm nó trở thành một mối đe dọa nghiêm trọng, nó có thể bắt đầu một cuộc tấn công trước khi các lực lượng phòng thủ kịp triển khai và dùng vận tốc của nó để thoát khỏi các máy bay tiêm kích thông thường.
Hàng 77 ⟶ 76:
 
==Biến thể==
[[FileTập tin:Horten_Ho_229_Smithsonian_frontHorten Ho 229 Smithsonian front.jpg|thumbnhỏ|Mẫu thử Horten Ho 229 V3 tại cơ sở phục hồi Garber của bảo tàng Smithsonian ([[Bảo tàng Hàng không và Không gian Quốc gia]])]]
[[FileTập tin:Horten_Ho_229_Smithsonian_rearHorten Ho 229 Smithsonian rear.jpg|thumbnhỏ|Phía sau của mẫu thử Horten Ho 229]]
 
;H.IX V1
Hàng 92 ⟶ 91:
;Ho 229 V5
: Phiên bản tiêm kích mọi thời tiết 2 chỗ, được phát triển ở Friedrichroda.<ref name="WOTR" />
;Ho 229 V6
:Phiên bản tiêm kích 1 chỗ trang bị các loại pháo khác nhau, có mô hình được sản xuất ở [[Ilmenau]].
 
Hàng 135 ⟶ 134:
==Tham khảo==
;Ghi chú
{{ReflistTham khảo}}
 
;Tài liệu
Hàng 160 ⟶ 159:
{{aviation lists}}
 
[[CategoryThể loại:Máy bay tiêm kích Đức 1940-1949]]
[[CategoryThể loại:Máy bay Gotha|Ho 229, Horten]]
[[CategoryThể loại:Máy bay Horten|Ho 229]]
[[CategoryThể loại:Dự án máy bay hủy bỏ]]
[[CategoryThể loại:Dự án máy bay hủy bỏ của Đức]]
[[CategoryThể loại:Máy bay tàng hình]]
[[Thể loại:Máy bay chiến đấu]]
[[Thể loại:Máy bay quân sự]]