Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đền Quán Thánh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Chú giải: clean up, replaced: {{reflist}} → {{Tham khảo}} using AWB
Namhong66 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Quan Thanh temple, Hanoi, Vietnam.jpg‎|nhỏ|phải|280px|Cổng tam quan đềnĐền Quán Thánh (Trấn Vũ quán).]]
'''Đền Quán Thánh''', tên chữ là '''Trấn Vũ Quán''', có từ đời [[Lý Thái Tổ]] (1010 - 1028), thờ [[Huyền Thiên Trấn Vũ]], là một trong bốn vị thần được lập đền thờ để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa ([[Thăng Long tứ trấn]]). Bốn ngôi đền đó là: [[Đền Bạch Mã]] (trấn giữ phía Đông kinh thành); [[Đền Voi Phục]] (trấn giữ phía Tây kinh thành); [[Đền Kim Liên]] (trấn giữ phía Nam kinh thành); Đền Quán Thánh (trấn giữ phía Bắc kinh thành). Đền Quán Thánh nằm bên cạnh [[Hồ Tây]], cùng với [[chùa Kim Liên]] và [[chùa Trấn Quốc]] tạo nên sự hài hoà trong kiến trúc cảnh quan và trong văn hoá tín ngưỡng đối với cả khu vực phía Tây Bắc của [[Hà Nội]].
 
== Lịch sử ==
[[Tập tin:‎Pagode du Grand Bouddha.jpg|nhỏ|phải|280px|Đền Quán Thánh xưa.]]
Đền được xây dựng vào đầu thời [[nhà Lý]]. và từngTừng trải qua nhiều đợt trùng tu vào các năm [[1618]], [[1677]], [[1768]], [[1836]], [[1843]], [[1893]], [[1941]] (các lần trùng tu này được ghi lại trên văn bia). Đợt trungtrùng tu năm [[Đinh Tỵ]] niên hiệu [[Vĩnh Trị]] thứ 2 đời vua [[Lê Hy Tông]] thì đúc tượng Huyền Thiên Trấn Vũ bằng [[đồng]] hun, thay cho pho tượng bằng gỗ trước đó. Năm [[Cảnh Thịnh]] 2 (1794) đời vua [[Quang Toản]], viên Đô đốc [[nhà Tây Sơn|Tây Sơn]] là Lê Văn Ngữ cho đúc chiếc [[khánh]] đồng lớn.<ref name="Hà Nội-di tich">''Hà Nội-di tích lịch sử văn hóa và danh thắng'' của Doãn Đoan Trinh, Đền Quán Thánh, trang 556-557.</ref>
 
Vua [[Minh Mạng]] [[nhà Nguyễn]] khi ra tuần thú [[Bắc Thành]], cho đổi tên đền thành '''Chân Vũ quán''' (''真武觀'')<ref name="Hà Nội-di tich"/>,. baBa chữ Hán này được tạc trên nóc cổng tam quan. Tuy nhiên, trên bức hoành trong Bái đường vẫn ghi là '''Trấn Vũ quán''' (''鎮武觀''). Năm 1842, vua [[Thiệu Trị]] cũng đến thăm đền và ban tiền đúc vòng vàng đeo cho tượng Trấn Vũ. Đền được công nhận di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia đợt đầu năm [[1962]].<ref name="Hà Nội-di tich"/>
 
Có thể thấy, người xưa chấp nhận cả hai cách viết và gọi là '''Trấn Vũ quán''' và '''Đền Quán Thánh'''. '''Quán''' là [[Đạo Quán]] và là nơi thờ tự của [[Đạo Giáo]], cũng như [[chùa]] là của [[Phật Giáo]].
 
[[Thánh]] Trấn Vũ là một hình tượng kết hợp nhân vật thần thoại [[Việt Nam]] (ông Thánh đã giúp [[An Dương Vương]] trừ [[ma]] trong khi xây dựng thành [[Cổ Loa]]) và nhân vật thần thoại [[Trung Quốc]] Chân Võ Tinh quân (vị [[Thánh]] coi giữ [[phương Bắc]]).
Dòng 15:
Tương truyền [[đền]] có từ đời [[Lý Thái Tổ]] ([[1010]]-[[1028]]). Nhưng theo Vũ Tam Lang trong cuốn Kiến trúc cổ Việt Nam, thì đền được khởi dựng năm 1102<ref name="Kiến trúc cổ">''Kiến trúc cổ Việt Nam'' của Vũ Tam Lang, trang 93.</ref> (có lẽ là là năm 1012 thì đúng hơn).
 
Cũng theoTheo Vũ Tam Lang, thì đền được di dời về phía Nam [[hồ Tây]] trong đợt mở rộng [[Hoàng thành Thăng Long]] năm 1474 của vua [[Lê Thánh Tông]]<ref name="Kiến trúc cổ"/>., Nhưngnhưng diện mạo đã được tu sửa vào năm 1836-[[1838]], đời vua Minh Mạng. Các bộ phận [[kiến trúc]] [[đền]] sau khi trùng tu bao gồm: tam quan, sân, ba lớp nhà tiền tế, trung tế, hậu cung. Các mảng chạm, khắc trên gỗ có giá trị nghệ thuật rất cao. Bố cục không gian rất thoáng và hài hòa. [[Hồ Tây]] phía trước mặt tiền tạo chonên đền luôn cóbầu không khí mát mẻ quanh năm.
 
Ngôi chính điện (bái đường), nơi đặt tượng Trấn Vũ, gồm 4 lớp mái (4 hàng hiên),. chínhChính giữa là bức hoành phi đề "Trấn Vũ Quán". Hai tường hồi có khắc các bài thơ ca ngợi cảnh đẹp củangôi đền và pho tượng Trấn Vũ, của các tác giả thời nhà Nguyễn như [[Nguyễn Thượng Hiền]], [[Vũ Phạm Hàm]],... Nhà tiềnTiền tế có khám thờ và án thư cùng tượng thờ nghệ nhân đúc tượng Trấn Vũ, ông trùmTrùm Trọng.<ref name="Hà Nội-di tich"/>
 
== Pho tượng thần Huyền Thiên Trấn Vũ ==
Dòng 23:
Pho tượng thần Huyền Thiên Trấn Vũ được đúc bằng [[đồng đen]] vào năm [[Vĩnh Trị]] thứ 2 (1677), đời [[Lê Hy Tông]] <ref>[http://vovnews.vn/Home/Duc-dong-Ngu-Xa/200912/129280.vov Đúc đồng Ngũ Xã.] Truy cập ngày 20/2/2011</ref>.
 
Tượng cao 3,96m, chu vi 8m, nặng 4 tấn, tọa trên tảng [[đá cẩm thạch]] cao 1,2m. Tượng có khuôn mặt vuông chữ điền nghiêm nghị nhưng bình thản, hiền hậu, với đôi mắt nhìn thẳng, râu dài, tóc xoã không đội mũ, mặc áo đạo sĩ ngồi trên bục đá với hai bàn chân để trần. Bàn tay trái của tượng đưa lên ngang ngực bắt ấn thuyết pháp, bàn tay phải úp lên đốc kiếm, kiếm chống trên lưng rùa nằm giữa hai bàn chân, quanh lưỡi kiếm có con rắn quấn từ dưới lên trên. [[Rùa]], [[rắn]] và [[kiếm]] là biểu trưng của Huyền Thiên Trấn Vũ.
 
Theo như sự tích được ghi chép ở đền thì Huyền Thiên Trấn Vũ là thần trấn quản phương Bắc, đã nhiều lần giúp nước Việt đánh đuổi ngoại xâm:. Lần thứ nhất vào đời [[Hùng Vương]] thứ 6 đánh giặc từ vùng biển tràn vào, lần thứ hai vào đời Hùng Vương thứ 7 đánh giặc Thạch Linh... Trong bản ghi chép còn có chi tiết Huyền Thiên Trấn Vũ giúp dân thành Thăng Long trừ tà ma và yêu quái, giúp An Dương Vương trừ tinh gà trắng xây thành Cổ Loa, diệt Hồ ly tinh trên sông Hồng đời [[Lý Thánh Tông]]...
 
Pho tượng Huyền Thiên Trấn Vũ là một công trình nghệ thuật độc đáo, đánh dấu kỹ thuật đúc đồng và tài nghệ của các nghệ nhân Việt Nam cách đây 3 thế kỷ.