Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Hiến Lê”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Thân thế: ;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
Đã lùi lại sửa đổi 9635264 của 123.26.33.67 (Thảo luận)
Dòng 27:
Trong đời cầm bút của mình, đến trước khi mất, ông đã xuất bản được hơn một trăm bộ sách, về nhiều lĩnh vực: [[văn học]], [[ngôn ngữ học]], [[triết học]], tiểu luận phê bình, [[giáo dục]], [[chính trị]], [[kinh tế]], gương danh nhân, du kí, dịch tiểu thuyết, học làm người... Tính ra, số bộ sách của ông được xuất bản gần gấp 1,5 lần số tuổi của ông và tính từ năm ông bắt đầu có sách in (đầu thập niên [[thập niên 1950|1950]]), trung bình mỗi năm ông hoàn thành ba bộ sách với 800 trang bản thảo có giá trị gửi tới người đọc.
 
Trong một số tác phẩm của mình, Nguyễn Hiến Lê đề [[bút danh]] '''Lộc Đình'''. Ông kể: ''"gần ngõ Phất Lộc có một cái đình không biết thờ vị thần nào mà kiến trúc rất đơn sơ. Hai cánh cửa gỗ luôn đóng kín, trên mái cổng tam quan có đắp một bầu rượu khá lớn nằm giữa hai con rồng uốn khúc châu đầu vào. Thuở bé, tôi được theo bà ngoại vào đình mấy lần, tôi thấy bên trong là một khoảng sân rộng vắng ngắt. Tuy vậy, mà quang cảnh lạnh lẽo trầm mặc thâm u của ngôi đình bỗng nhiên len sâu trong tâm tư tôi những khi ngồi học trong lớp, hoặc những khi tôi đến chơi nơi nào đông vui là tôi lại chạnh nghĩ đến ngôi đình, nhớ đến bà ngoại tôi. Nhất là sau ngày cha tôi và bà ngoại tôi vĩnh viễn ra đi trong cái ngõ hẹp tối tăm ấy..."'' và ''"Bút danh Lộc Đình tôi dùng ký dưới một bài văn ngắn từ hồi trẻ... Lộc là ngõ Phất Lộc, còn Đình là cái đình ấy."''
0;
 
[p;'/
Năm [[1980]] ông về lại [[Long Xuyên]]. Cùng năm ông bắt đầu viết ''Hồi ký Nguyễn Hiến Lê'', đến tháng 9 năm 1980 thì hoàn thành. Đồng thời ông tách những đoạn nói về văn nghiệp ra riêng, sửa chữa, bổ sung và biên tập lại thành cuốn sách ''Đời viết văn của tôi''. Tác phẩm này được sửa chữa xong vào năm 1981, sau đó sửa chữa thêm và hoàn chỉnh vào năm 1983.<ref>Châu Hải Kỳ, trang 361-362</ref>
;
 
Ông lâm bệnh và mất lúc 8 giờ 50 phút<ref>Châu Hải Kỳ, trang 412</ref> ngày [[22 tháng 12]] năm [[1984]] tại Bệnh viện An Bình, [[Chợ Lớn]],<ref>Châu Hải Kỳ, trang 408</ref> [[Thành phố Hồ Chí Minh]], hưởng thọ 73 tuổi. Linh cữu của ông được hỏa thiêu vào ngày [[24 tháng 12]] năm 1984 tại đài thiêu Thủ Đức.
 
Việc hỏa táng và làm tang lễ, ma chay đơn giản là ý nguyện của Nguyễn Hiến Lê lúc sinh thời<ref name = chk414>Châu Hải Kỳ, trang 414</ref>. Trong một bức thư gửi nhà thơ Bàng Bá Lân đề ngày 18 tháng 7 năm 1981 ông từng viết:
 
{{cquote|''Thời xưa mong giữ được mộ 100 năm, thời nay tôi sợ không được vài chục năm. Cho nên tôi tính chết thì hỏa táng, đỡ thắc mắc cho con cháu ở xa. Và cúng giỗ, tôi cũng bảo dẹp bớt đi ! Không ngờ cái tục lệ thiêng liêng mấy nghìn năm của mình bây giờ chỉ trong có mấy năm mà thay đổi hẳn. Ngay cả tâm trạng của mình cũng thay đổi nữa !''|||Nguyễn Hiến Lê|<ref>Châu Hải Kỳ, trang 408.</ref>}}
 
Sau khi hỏa thiêu, di cốt của ông được đem về chôn cất trong khuôn viên nhà bà Nguyễn Thị Liệp (người vợ thứ hai của ông) ở thành phố [[Long Xuyên]]. Năm [[Kỷ Mão]] ([[1999]]), bà Liệp tạ thế và được an táng trong khuôn viên chùa Phước Ân ở Rạch Cai Bường (thuộc xã Vĩnh Thạnh, huyện [[Lấp Vò]], tỉnh [[Đồng Tháp]]), thì tro cốt của ông cũng được đặt bên trên phần mộ của bà.<ref>[http://phapluattp.vn/20100101044224103p1112c1113/tim-mo-cu-nguyen-hien-le.htm Tìm mộ cụ Nguyễn Hiến Lê]</ref>
 
== Một vài "tự bạch" về nhân sinh quan của ông ==