Khác biệt giữa bản sửa đổi của “AIDC F-CK-1 Ching-kuo”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Tham khảo: clean up, replaced: {{reflist| → {{Tham khảo| using AWB
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 39:
* ''Thiên Kiếm'' (天劍): Phát triển [[tên lửa không đối không]].
 
IDF được thiết kế để đối phó với các loại máy bay tiêm kích của [[Không quân Quân giải phóng Nhân dân]] Trung Quốc như [[Shenyang J-8|J-8]], [[Chengdu J-7|J-7]], và loại đời mới như [[Nanchang J-12|J-12]], với dự định IDF có hiệu suất ngang với F-16 và [[Dassault-Breguet Mirage 2000|Mirage 2000]]. Nhóm phát triển lực đẩy đã gặp phải những khó khăn lớn trong việc cố gắng phát triển hay tiếp nhận những động cơ phản lực tiên tiến thích hợp. Có những nghiên cứu về việc sử dụng động cơ yếu vì những lý do chính trị hơn là kỹ thuật, tức là Hoa Kỳ không muốn thấy Đài Loan khiêu khích Trung Quốc và như vậy dẫn đến IDF có một "tầm bay không lớn hơn so với F-5E" và "khả năng cường kích không lớn hơn so với F-16". Bất chấp nhiều lý do, nhiều người cho rằng F-CK-1 sẽ có động cơ yếu, có nghĩa là hiệu suất của nó không cùng mức như các máy bay tiêm kích khác của ROCAF (như Block 20 F-16).
 
=== Vân Hán: Nghiên cứu Động cơ ===
Những động cơ xuất khẩu tiên tiến như [[General Electric F404]] hay [[Pratt & Whitney F100]] không thể bán cho Đài Loan. Cả [[General Electric J85]] và [[General Electric J79]] đều coi như không phù hợp với về hiệu suất, và đa số các công ty sản xuất [[động cơ]] của [[Châu Âu]] và Mỹ đều từ chối hợp tác với Đài Loan. Đầu tư liên kết với Garrett trở thành một giải pháp thực tế nhất.
 
Năm [[1978]], sau thành công của động cơ [[Honeywell TFE731|TFE-731]], công ty động cơ Garrett của [[Hoa Kỳ|Mỹ]] công bố nghiên cứu chung về động cơ đốt nhiên liệu phụ trội TFE-1042 với công ty [[Volvo Aero|Volvo Flygmotor AB]] của [[Thụy Điển]]. Động cơ TFE-731 Model 1042 được chào hàng như một động cơ có tỷ lệ đường vòng thấp "động cơ TFE 731 thương mại đã được chứng minh bắt nguồn từ quân đội" và nó đáp ứng "hiệu suất, tin cậy, lợi nhuận từ những máy bay huấn luyện cao cấp và tấn công hạng nhẹ thế hệ tiếp theo", với lực đẩy đạt thường 4260 lbf (18.9 kN) và khi đốt nhiên liệu phụ trội đạt 6790 lbf (30.2 kN). Sau những đàm phán ban đầu, vốn đầu tư sẽ được chia đều giữa Garrett, Volvo, AIDC, và [[Piaggio]] của [[Ý|Italy]]. Sự phát triển gồm có động cơ TFE-1042-6 không đốt nhiên liệu phụ trội cho [[máy bay cường kích]] hạng nhẹ và [[máy bay huấn luyện|huấn luyện]] cao cấp, và động cơ TFE-1042-7 cho máy bay [[AMX International AMX|AMX]] và [[F-5]] nâng cấp. AIDC cũng đều nghị nâng cấp TFE-1042-7, tăng lực đẩy lên 8.000 lbf (36 kN) với hai động cơ để cạnh tranh với GE F404. Tuy nhiên dự án [[JAS 39 Gripen]] đã quyết định tiếp tục với một động cơ đơn F404, và Piaggio yếu cầu tham gia sau đó do lợi nhuận tài chính. Như vậy chỉ có Garrett và AIDC đã đầu tự vào [[International Turbine Engine Corporation]] (ITEC), với hợp đồng được ký năm [[1982]].
 
Những nhu cầu động cơ đã thay đổi sau khi vai trò của IDF được chuyển từ một [[máy bay tiêm kích đánh chặn]] thành một [[máy bay tiêm kích chiếm ưu thế trên không]] vào cuối năm [[1982]]. ITEC đã đổi tên hoàn toàn từ TFE-1042-7 thành TFE-1042-70 - ví dụ, tỷ lệ đường vòng được thay đổi từ 0,84 thành 0,4, và vốn đầu tư tăng từ 1,8 tỷ USD lên thành khoảng 3,2 tỷ [[Đô la Mỹ|USD]]. Tuy nhiên, để tránh những sức ép từ [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]], chính phủ Hoa Kỳ đã yêu cầu mọi công ty Hoa Kỳ hợp tác với Đài Loan trong dự án IDF tiếp tục không được phô trương. Bởi vậy mà việc xem "TFE-1042 đơn thuần là động cơ dân sự TFE-731 với khả năng đốt nhiên liệu phụ trội" chưa bao giờ hoàn toàn bị xóa bỏ.
 
Năm [[1985]], xem xét sơ bộ về thiết kế IDF đã phát hiện một số hiệu suất không đáp ứng được nhu cầu đề ra, và người ta đã xác định phải nâng cấp lực đẩy của động cơ thêm 10% là giải pháp đơn giản nhất. Vì những hạn chế giấy phép xuất khẩu từ Hoa Kỳ, ITEC sử dụng [[FADEC]] để tăng giới hạn lực đẩy dưới một độ cao nhất định (sự hạn chế không được gỡ bỏ cho đến năm [[1990]]). Dù nâng cấp về bản chất là sử dụng cấu hình của TFE-1088-11, để giảm bớt việc can thiệp chính trị, ITEC đã đổi tên gốc, phiên bản lực đẩy thấp hơn như TFE-1042-X70 và tên gọi TFE-1042-70 được giữ lại cho phiên bản nâng cấp.
Dòng 61:
Điều này cũng cần phải chú ý là sự giúp đỡ của GD bị giới hạn bởi lệnh hạn chế xuất khẩu vũ khí của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, lệnh này giới hạn công việc của GD với cố vấn thiết kế ban đầu nhưng không được phát triển xa hơn, sản xuất hay tiếp thị.
 
Nhiều khái niệm thiết kế khung máy bay khác nhau đã được khảo sát (như ống đẩy vec-to 2D của XX-201, cánh tam giáp kép/cánh đuôi kép 401). Sau khi động cơ General Electric J79 chính thức bị hủy bỏ vào năm [[1983]], 3 cấu hình khác đã được AIDC đề xuất. Cấu hình A tương tự như F-5E. Cấu hình B tương tự [[Eurofighter Typhoon]] và [[JAS 39 Gripen|Saab Gripen]]. Cấu hình C tương tự [[F-15 Eagle|F-15]]. Cùng lúc, GD đã làm việc song song trên cấu hình G. Dần dần G-4 được lựa chọn, nhưng với nhiều đặc tính kết hợp của C-2. Trong thời gian này, dự án được đặt tên là "Light Weight Defense Fighter" (Máy bay tiêm kích phòng thủ hạng nhẹ). Năm [[1985]], thiết kế dựa trên cấu hình đã được mở rộng thành thiết kế sơ bộ SE-1. Cuối năm [[1985]], AIDC quyết định bỏ qua giai đoạn nguyên mẫu và trực tiếp đi thẳng vào giai đoạn Full Scale Development (FSD - Phát triển đúng kích thước), để giảm bớt thời gian và tiết kiệm chi phí. Dự án một lần nữa được đổi tên thành "Indigenous Defense Fighter" (Máy bay tiêm kích nội địa). 4 máy bay FSD đã được chế tạo, với 3 chiếc một chỗ và 1 chiếc hai chỗ.<ref name = "yangpaochih">{{chú thích sách | last = Yang | first = Pao-Chih | title = Soaring Eagle: A Development Story of Taiwan's Indigenous Defense Fighter | publisher = Yun Hao Publishing| language=Chinese}}</ref>
 
=== Thiên Lôi: Hệ thống điện tử tích hợp ===
IDF trnag bị với [[ra đa|radar]] xung Doppler multi-mode GD-53 ''Golden Dragon'', về cơ bản là General Electric [http://www.lockheedmartin.com/data/assets/7729.pdf AN/APG-67] băng tần X phát triển cho F-20, loại radar này được khẳng định chia sẻ một số thành phần và công nghệ của radar [[AN/APG-66]] trên [[F-16 Fighting Falcon|F-16]], và loại radar phỏng theo này sẽ giúp khả năng look-down và shoot-down của GD-53 được tăng cường đáng kể khi so sánh với bản gốc [http://www.lockheedmartin.com/data/assets/7729.pdf AN/APG-67], có tầm hoạt động ngang [[AN/APG-66]]. [[Ra đa|Radar]] có thể đồng thời theo dõi 10 mục tiêu và tấn công 1 trong 10 mục tiêu theo dõi với [[tên lửa không đối không]] dẫn đường bằng radar bán chủ động. Thiết kế vốn đã hạn chế, vì vậy IDF hớp nhất một hệ thống điều khiển [[các hệ thống kiểm soát bay|fly-by-wire]] tự động hoàn toàn dư ba hiện đại. Hệ thống điện tử dựa vào kiến trúc mô-đun với kênh MUX số (bộ dồn kênh số) MIL-STD-1553B dư hai. Hệ thống dẫn đường quán tính Honeywell H423, RHAWS TWS-95, và màn hình hiển thị trước buồng lái Bendix-King đã được lựa chọn.<ref name = "jonlake">{{chú thích sách | last = Lake | first = Jon | title = Ching-Kuo: The Indigenous Defence Fighter, WAPJ Vol. 26 | publisher = Aerospace Publishing Ltd}}</ref> Một số năng lực đã bị trì hoãn hay bỏ qua để đáp ứng yêu cầu hiệu suất, từ hạn chế động cơ dẫn đến quản lý trọng lượng chính xác.
 
=== Thiên Kiếm: Tên lửa R&D ===
Dự án Tien Chien của [[Chungshan Institute of Science and Technology|CSIST]] được độc lập hơn, từ khi nó được xem xét bởi một số quan chức để phát triển cho mọi máy bay của ROCAF hơn là duy nhất chỉ là IDF. Tien Chien 1 (TC-1) là một tên lửa tầm nhiệt tầm gần với một hình dạng ngoài tương tự như [[AIM-9 Sidewinder]], trong khi Tien Chien 2 (TC-2) là một tên lửa không chiến ngoài tầm nhìn dẫn đường bằng radar chủ động được tuyên bố cùng lớp với loại [[AIM-120 AMRAAM]].
 
Cuộc bắn thử nghiệm đầu tiên của TC-1 được thực hiện trên một chiếc F-5E vào [[tháng tư|tháng 4]]-[[1986]], với mục tiêu là một máy bay không người lái [[Beechcraft|Beech]] đã bị phá hủy thành công. Việc sản xuất ban đầu của TC-1 diễn ra vào năm [[1989]], và nó bắt đầu được trang bị cho các đơn vị vào năm [[1991]]. Cả AIM-9 và TC-1 đều xuất hiện trong hoạt động của IDF.<ref name="jonlake"/> Số lượng sản xuất không được công bố.
 
Người ta tin rằng CSIST đã hợp tác với [[Motorola]] để chế tạo đầu dò tích cực của TC-2, có khả năng dựa trên thiết kế của Motorola đề xuất cho AIM-120 nhưng không được Mỹ lựa chọn. 40 tên lửa TC-2 mẫu tiền sản xuất đã được chế tạo trước năm [[1995]], và là [[tên lửa không đối không]] ngoài tầm nhìn duy nhất của ROCAF/Đài Loan có mặt trong bản kiểm kê trong thời gian diễn ra Cuộc khủng hoảng Tên lửa Eo biển Đài Loan. Trên 210 quả tên lửa TC-2 đã được chế tạo, tuy nhiên tình trạng sản xuất và thời gian biểu không được công bố.
Dòng 78:
Chuyến bay thử thành công đầu tiên của FSD A1 diễn ra vào ngày [[28 tháng 5]]-[[1989]]. Mẫu FSD B1 hai chỗ thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày [[10 tháng 7]]-[[1990]].<ref>{{chú thích web | title = IDF Ching-Kuo Fighter Product Introduction | publisher = [[AIDC]] | accessdate = 2006-10-15 | url=http://www.aidc.com.tw/AIDCsite/twn4/twn4_1a.htm | language=Chinese}}</ref> Việc bắn thử thành công tên lửa không đối không ''Tien-Chien II'' (Sky Sword II) diễn ra vào năm [[1992]], ROCAF thành lập phi đội F-CK-1 đầu tiên vào năm 1993.
 
ROCAF ban đầu dự định đặt chế tạo 250 máy bay nhưng sau đó giảm xuống còn 130 chiếc năm 1991, do thỏa thuận thu mua 150 chiếc [[F-16 Fighting Falcon|F-16]] Block 20 A/B và 60 chiếc [[Dassault Mirage 2000|Mirage 2000]]-5E/F của Mỹ và [[Pháp]]. Chiếc IDF A/B cuối cùng được sản xuất năm [[1999]].<ref name="globalsecurity"/>
 
=== F-CK-1 C/D ''Hsiang Sheng'' ===
Dòng 97:
Hợp đồng phát triển cho nâng cấp máy bay điều khiển bay của IDF C/D đã được dành cho BAE vào năm [[2002]]. Máy bay có một máy tính [[PowerPC]] 32-bit với bộ xử lý và khả năng tính toán nhanh hơn, khả năng tin cậy cao hơn và hợp nhất tốt hơn với hệ thống điện tử hàng không. AIDC nói rằng việc cải tiến máy tính điều khiển bay sẽ tạo ra một máy bay "an toàn, và hiệu suất cao hơn".<ref>{{chú thích báo | title = BAE SYSTEMS Flight Control Computer Flies on Taiwan’s Newest Fighter | publisher = BAE press release via Business Wire | date = [[2006-11-06]] | url = http://home.businesswire.com/portal/site/google/index.jsp?ndmViewId=news_view&newsId=20061106005723&newsLang=en | accessdate = 2006-11-06}}</ref>
 
AIDC lên kế hoạch ban đầu sẽ cho nguyên mẫu IDF C/D xuất xưởng trong [[Ngày Song Thập|Ngày quốc khánh Trung Hoa Dân Quốc]] [[10 tháng 10]]-[[2006]].<ref>{{chú thích báo
|title= AIDC To Launch Upgraded Fighter On Double-10 Day | date=[[2006-07-01]]
|publisher= Central News Agency | language = Chinese |
Dòng 104:
Trong thời gian chuyến thăm tới nhà máy Taichung Shalu của AIDC vào [[27 tháng 3]]-[[2007]], tổng thống [[Trần Thủy Biển]] đã chứng kiến một chuyến bay thử nghiệm của F-CK-1D, và tuyên bố việc nâng cấp IDF sẽ mang tên ''Hsiung Ying'' (Brave Hawk), thể hiện máy bay tiêm kích mới sẽ bảo vệ Đài Loan như Chim ó Có mào.<ref>{{chú thích báo | author= Chen Yi-Wei| title = Hsiang Sheng Result Displayed, President Named The New Fighter As Hsiung Ying| date = [[2007-03-27]] | accessdate = 2007-03-27 | publisher= Central News Agency | language = Chinese | url=http://news.yam.com/cna/politics/200703/20070327073257.html }}</ref>
 
Kể từ [[tháng một|tháng 1]]-[[2008]], 70 chiếc F-CK-1 A/B sẽ được nâng cấp thành F-CK-1 C/D, theo một số quan chức AIDC và ROCAF, với 2 chiếc đầu tiên nâng cấp thành F-CK-1 C đã trao cho ROCAF vào tháng 12-2007.
 
=== Máy bay huấn luyện phi công tiêm kích đầu vào IDF ===
[[Tập tin:F-CK-1 cockpit.jpg|nhỏ|Buồng lái F-CK-1C/D.]]
Theo các phương tiện truyền thông, khái niệm máy bay huấn luyện AIDC IDF bao gồm loại bỏ radar điều khiển hỏa lực và các hệ thống chiến đấu khác vẫn được duy trì ở khoang điều khiển bay phía sau, vì vậy IDF có thể được sử dụng như một máy bay huấn luyện phi công lái máy bay tiêm kích đầu vào (LIFT). ROCAF có vẻ có sự e dè với khái niệm trên, tuy nhiên, khi nó là IDF LIFT thì có nghĩa là nó sẽ không thể sử dụng trong thời chiến để chiến đấu.<ref>{{chú thích báo|author=Lu Chao-Lung|title = AIDC Urges The Birth of IDF Variant | date =[[2000-07-15]] | publisher= China Times | language = Chinese}}</ref> Một bức thư của bộ quốc phòng Đài Loan nói rằng: "Đối với những tin đồn của các tờ báo nói về khao khát của AIDC được sử dụng máy bay tiêm kích IDF như một cơ sở cho phát triển huấn luyện siêu âm, nó chỉ là khái niệm trong kế hoạch hoạt động của công ty. Bộ quốc phòng và Không quân hiện nay không có kế hoạch nào như vậy". Bức thư cũng nói rằng vì ngân sách eo hẹp, ROCAF sẽ thay vào đó yêu cầu AIDC tăng tuổi thọ của máy bay huấn luyện [[AIDC AT-3|AT-3]] và tiếp tục sử dụng [[F-5]] trong vai trò LIFT.<ref>{{cite|author=ROC Ministry of National Defense|title=ROC Executive Yuan Letter #904492, ROC Legislative Yuan Letter #4-3-32-4280|work = ROC Legislative Yuan Communiqué Vol 89 #50 Yuan Record|publisher=ROC Legislative Yuan|date=2000-08-14|language=Chinese}}</ref> Năm [[2003]], cựu chủ tịch AIDC là Huang Jung-Te đã nói rằng AIDC hiện vẫn đang hi vọng ROCAF sẽ xem xét việc sử dụng một phiên bản được đơn giản hóa của IDF cho LIFT, và một khái niệm như vậy có thể chỉ có giá 16 triệu [[Đô la Mỹ|USD]] so với 19 triệu USD của [[T-50 Golden Eagle|T-50]].<ref>{{chú thích web|url=http://www.aidc.com.tw/AIDCsite/twnpub/news.asp?Sno=58 |author=Cheng Chi-Wen|title = Interview: AIDC Chairman, General Huang Jung-Te | date =[[2003-04-04]] | publisher= DIIC Magazine via AIDC website | language = Chinese}}</ref> Tuy nhiên, F-CK-1 LIFT sửa đổi hay một khái niệm sản xuất mới chưa bao giờ được chính phủ thừa nhận cấp ngân quỹ hay tán thành.
 
Vào [[tháng năm|tháng 5]]-[[2006]], trung tướng Cheng Shih-Yu công bố bộ quốc phòng có lập một kế hoạch cho các máy bay F-5E/F nghỉ hưu vào năm [[2010]] và cho phép những chiếc IDF hiện đang có sẽ đảm nhiệm các nhiệm vụ huấn luyện.<ref>{{chú thích báo|title = MND Plans To Buy New Fighter Planes|url = http://english.www.gov.tw/TaiwanHeadlines/index.jsp?recordid=20490&action=CNA| date=[[2006-05-18]]|accessdate=2006-10-16|publisher=Central News Agency}}</ref> Không có thông tin rõ ràng về việc sửa đổi (nếu có) sẽ được thực hiện đối với những chiếc IDF sau khi chúng trở thành máy bay huấn luyện.
 
Nó chỉ có giá trị nào đó khi tất cả các phi công ROCAF được lựa chọn và gửi đến Mỹ và Pháp để huấn luyện bay sử dụng F-16 block 20 và Mirage 2000-5 sẽ phải bay với IDF/F-CK-1 ít nhất 6 tháng.
Dòng 180:
* [[JAS 39 Gripen]]
* [[JF-17 Thunder]]
* [[Dassault Mirage 2000|Mirage 2000]]
* [[Chengdu J-10]]
=== Xem thêm ===
* [[Mitsubishi F-2]]
* [[T-50 Golden Eagle|KAI T-50 Golden Eagle]]
 
{{aviation lists}}