Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Daimyō”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
ZéroBot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.1) (Bot: Thêm la:Daimyo
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng; sửa cách trình bày
Dòng 1:
{{Unreferenced|date=tháng 12 năm 2007}}
[[Tập tin:Shimazu by ichiki.jpg|nhỏ|[[Shimazu Nariakira]], daimyo của [[lãnh địa Satsuma]], trong bức hình chụp đage của [[Ichiki Shirō]]]]
{{nihongo|'''Daimyo'''|大名|daimyō|Đại danh}} ({{Audio|ja-daimyo.ogg|daimyō}}) là những lãnh chúa [[phong kiến]] từ [[thế kỷ 10]] đến đầu [[thế kỷ 19]] ở [[Lịch sử Nhật Bản|Nhật Bản]] thần phục [[ShogunShōgun|Tướng quân]]. Từ "[[thủ hộ]]" vào [[thời kỳ Muromachi|thời Muromachi]] qua [[thời kỳ Chiến Quốc (Nhật Bản)|thời Sengoku]] cho đến các đại danh của [[thời kỳ Edo|thời Edo]], tước hiệu này đã có một lịch sử lâu dài và đa dạng. Từ ''Daimyo'' đôi khi cũng được dùng để chỉ những người đứng đầu các gia tộc, cũng được gọi là [[lãnh chúa]]. Thông thường, mặc dù không phải dành riêng cho vị trí này, là từ các lãnh chúa mà Tướng quân phát sinh hay [[Nhiếp chính quan]] được chọn.
 
Daimyo thường mặc đồ màu tím, từ đậm đến nhạt tùy theo thứ bậc của họ{{Fact|date=tháng 11 năm 2007}}. Tím sẫm hay nhạt ở trước xanh sậm và nhạt, đỏ sậm và nhạt, và cuối cùng là đen{{Fact|date=tháng 11 năm 2007}}. Những daimyo cao quý nhất được coi là quý tộc{{Fact|date=tháng 11 năm 2007}}.
 
== Shugo daimyo ==
{{nihongo|Shugo daimyo|守護大名|shugo daimyō, Thủ hộ Đại danh}} là nhóm người đầu tiên được phong tước hiệu "daimyo". Họ đi lên từ các "[[shugo]]" trong [[thời kỳ Muromachi|thời Muromachi]]. Shugo daimyo nắm cả binh quyền, quyền lực chính trị, và cả kinh tế trong một tỉnh. Họ tích lũy sức mạnh trong những thập kỷ đầu tiên của thời đại Muromachi.
 
[[Tập tin:AizuWakamatsuKatamori.jpg|nhỏ|trái|250px|Daimyo [[Matsudaira Katamori]] thăm tư dinh của [[Saigō Tanomo|một thuộc hạ]]. Hình nộm trong tòa nhà [[Aizuwakamatsu, Fukushima|Aizuwakamatsu]]]]
Dòng 15:
[[Chiến tranh Ōnin]] là cuộc bạo loạn lớn mà các shugo daimyo đánh giết lẫn nhau. Trong suốt thời gian của cuộc chiến, ''kuni [[Ikkō-ikki|ikki]],'' hay nổi dậy tại các tỉnh, diễn ra vì các chiến binh hùng mạnh ở địa phương muốn độc lập với các shugo daimyo. Những người đại diên của các shugo daimyo, sinh sống ở các tỉnh, nắm lấy cơ hội này để củng cố địa vị của mình. Cuối cùng vào thế kỷ 15, những shugo daimyo thừa tự vẫn giữ được quyền lực. Những người đã trao quyền cho cấp phó của mình mất quyền và bị thay thế bởi một tầng lớp mới, "sengoku daimyo," đi lên từ cấp bậc ''shugodai'' và ''[[Ji-samurai|kokujin]]''.
 
== Sengoku daimyo - Daimyo thời Sengoku ==
Trong các {{nihongo|sengoku daimyo|戦国大名|sengoku daimyō, Chiến Quốc Đại Danh}} có rất nhiều người đã từng là shugo daimyo như [[gia tộc Satake]], [[gia tộc Imagawa]], [[gia tộc Takeda]], [[gia tộc Toki]], [[gia tộc Rokkaku]], [[gia tộc Ōuchi]] và [[gia tộc Shimazu]]. Những gia tộc mới nhận tước hiệu này là các gia tộc [[gia tộc Asakura|Asakura]], [[gia tộc Amago|Amago]], [[gia tộc Nagao|Nagao]], [[gia tộc Miyoshi|Miyoshi]], [[gia tộc Chōsokabe|Chōsokabe]], [[gia tộc Jimbō|Jimbō]], [[gia tộc Hatano|Hatano]], [[gia tộc Oda|Oda]] và [[gia tộc Matsunaga|Matsunaga]]. Những người này đi lên từ cấp bậc "shugodai" và các cấp phó của họ. Những sengoku daimyo nữa như [[gia tộc Mōri]], [[gia tộc Tamura]] và [[gia tộc Ryūzōji]] đi lên từ các ''kokujin''. Các viên chức thấp hơn của Mạc phủ và các [[rōnin|ronin]] ([[gia tộc Hậu Hōjō]], [[gia tộc Saito|gia tộc Saitō]]), [[Kokushi (viên chứcl)|viên chức cấp tỉnh]] ([[gia tộc Kitabatake]]) và ''[[kuge]]'' ([[gia tộc Tosa Ichijō]]) cũng tiến lên hàng ngũ sengoku daimyo{{Fact|date=tháng 11 năm 2007}}.
 
== Daimyo dưới thời Edo ==
Sau [[trận Sekigahara]] năm 1600 đánh dấu sự bắt đầu của [[thời kỳ Edo|thời đại Edo]], [[shōgun|shogun]] [[Tokugawa Ieyasu]] tái cơ cấu lại một cách mạnh mẽ 200 daimyo và đất đai của họ thành các ''[[Han (Nhật Bản)|han]]'' và xếp hạng dựa trên sản lượng gạo. Daimyo là những người đứng đầu các ''han'' có sản lượng 10.000 [[thạch (Nhật Bản)|koku]] (50.000 giạ) hay hơn. Ieyasu cũng phân loại daimyo dựa trên việc họ có gần gũi với gia đình Tokugawa không: ''[[Shinpan (daimyo)|shinpan]]'' có họ hàng với Tokugawa; ''[[fudai]]'' đã là chư hầu của Tokugawa hay đồng minh trong chiến tranh; và ''[[tozama]]'' là những người đối nghịch với Tokugawa trước trận chiến (không nhất thiết phải đánh lại Tokugawa).
 
Năm 1800, có khoảng 170 daimyo trên toàn [[Nhật Bản]]{{Fact|date=tháng 11 năm 2007}}.
Dòng 30:
''Tozama'' daimyo làm chủ các thái ấp rộng lớn, với [[Lãnh địa Kaga|Kaga]] ''han'' ở [[quận Ishikawa]], do [[gia tộc Maeda]] làm chủ, ước tính có tới 1.000.000 koku. Các gia tộc ''tozama'' nổi tiếng khác bao gồm [[gia tộc Mōri]] ở [[Tỉnh Nagato|Chōshū]], và [[gia tộc Shimazu]] ở [[tỉnh Satsuma]], [[gia tộc Date|Date]] ở [[Sendai]], [[gia tộc Uesugi]] ở [[Yonezawa, Yamagata|Yonezawa]] và [[gia tộc Hachisuka]] ở [[tỉnh Awa (Tokushima)|Awa]]. Ban đầu, nhà Tokugawa cho rằng họ có thể nổi loạn bất cứ lúc nào, nhưng trong suốt thời Edo, hôn nhân giữa nhà Tokugawa với các ''tozama'', cũng như chính sách kiểm soát như ''[[sankin kōtai]]'', đã cho một cục diện hòa bình lâu dài.
 
=== Sankin kōtai ===
[[Sankin kōtai]] (luân phiên trình diện) là hệ thống trong đó nhà Tokugawa yêu cầu tất cả các daimyo cứ cách năm lại phải ở lại triều đình của Tokugawa ở Edo trong một năm, và giữ những thành viên gia đình của họ ở Edo khi họ trở lại ''han'' của mình. Điều này giúp cho việc kiểm soát về tài chính và chính trị của Edo với các daimyo chặt chẽ hơn. Sau này trong thời Tokugawa, nhiều hệ thống kiểm soát các daimyo khác cũng được thiết lập, như đóng góp bắt buộc vào các việc công cộng như xây dựng đường sá. Thêm vào đó, các daimyo bị cấm đóng thuyền và xây lâu đài, và việc thể hiện sức mạnh quân sự bị kiểm soát nghiêm ngặt.
 
Mệt mỏi vì những sự kiểm soát này, và thường trong tình hình tài chính tồi tệ vì những thứ như ''sankin kotai,'' bắt buộc phải ủng hộ cho các công việc công cộng, và tiêu xài hoang phí, vài daimyo đã chống lại Mạc phủ Tokugawa trong cuộc Minh Trị Duy Tân.
 
== Sau cuộc Minh Trị Duy Tân ==
Năm 1869, năm sau cuộc [[Minh Trị Duy tân]], daimyo, cùng với ''[[kuge]]'', được xếp vào một tầng lớp quý tộc mới, ''[[kazoku]]''. Năm 1871, [[Xóa bỏ hệ thống han|''han'' bị xóa bỏ]] và [[Quận ở Nhật Bản|quận]] được thành lập, sau đó thực sự chấm dứt kỷ nguyên của các daimyo ở Nhật Bản. Sau sự thay đổi này, nhiều daimyo vẫn giữ được đất đai của mình, và được bổ nhiệm là thống đốc; tuy nhiên, họ sớm bị thôi chức và bị gọi toàn bộ về [[Tōkyō|Tokyo]], do đó cắt bỏ mọi cơ sở quyền lực độc lập ẩn chức mối họa nổi dậy tiềm tàng. Bất chấp việc này, thành viên của các gia đình daimyo vẫn giữ vị trí nổi bật trong chính phủ và xã hội, và vài trường hợp vẫn còn quan trọng cho đến ngày nay.
 
== Xem thêm ==
*[[Lịch sử Nhật Bản]]
*[[Sankin kōtai]]