Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Gdańsk”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Tham khảo và Chú thích: clean up, replaced: {{reflist| → {{Tham khảo|
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 47:
Gdańsk nằm ở cửa sông [[Motława]], nối với sông [[Leniwka]], một nhánh của châu thổ sông [[Wisła]] gần đó, mà hệ thống nước cung cấp 60% cho khu vực Ba Lan và nối Gdańsk với thủ đô [[Warszawa]]. Điều này mang lại lợi thế độc đáo cho thành phố như một trung tâm mậu dịch biển của Ba Lan. Cùng với hải cảng [[Gdynia]] kế bên, Gdańsk cũng là một trung tâm công nghiệp quan trọng. Về lịch sử, vì là hải cảng quan trọng và trung tâm đóng tàu, Gdańsk đã từng là thành viên của liên minh [[Hanse]].
 
Thành phố là cái nôi của phong trào [[Công đoàn Đoàn kết]] mà dưới sự lãnh đạo của nhà hoạt động chính trị [[Lech Wałęsa]], đã đóng vai chủ yếu trong việc chấm dứt chế độ [[Chủ nghĩa cộng sản|Cộng sản]] khắp vùng [[Trung Âu]]. Đây cũng là nơi sinh và quê hương của thủ tướng [[Donald Tusk]], một người gốc sắc tộc [[Kashubians]].
 
== Các tên ==
Dòng 53:
Tên của thành phố được cho là bắt nguồn từ sông [[Motława]],<ref>[http://64.233.167.104/search?q=cache:CricehQx6TwJ:www.directferries.co.uk/gdansk_guide.htm+Gdania+river&hl=en&ct=clnk&cd=3&gl=ca From the history of Gdańsk city name, as explained at Gdansk Guide]</ref> tên gốc của nhánh sông Motława trên đó thành phố được dựng lên. Gdańsk và Gdania được coi như các từ phái sinh từ tên Gothic của khu vực ([[Gothiscandza|Gutiskandja]]),<ref>Adrian Room, ''Placenames of the World, 2nd Ed.'' [http://books.google.se/books?id=M1JIPAN-eJ4C&pg=PA142&lpg=PA142&dq=gda%C5%84sk+%22gothic+name%22&source=web&ots=idosJ5LU_M&sig=s2TpjJe3SgAaHy7E4M086LOheVY&hl=sv] Quote: "The city has a Gothic name, from Gutisk-andja, "end of the Goths," as these people's territory extended to here. The city's former German name, Danzig, misleadingly suggests an association with the Danes."</ref> tuy nhiên đây cũng là vấn đề chưa chắc chắn.<ref>Dennis H. Green, ''The Visigoths from the Migration Period to the Seventh Century'' [http://books.google.se/books?id=0QLwfButJokC&pg=PA17&lpg=PA17&dq=%22gutisk+andja%22+gdansk&source=web&ots=2Dd4piTYAz&sig=s44y04whCmgcM0_hUFtqCUaYgEg&hl=sv ] Quote: "...the difficulty with Gdańsk, Gdynia and ''gudas''... in the Polish coastal area centuries before the Goths are known to have occupied this region... casts doubt on the theory of Gothic origin."</ref> Cũng giống như nhiều thành phố vùng [[Trung Âu]] khác, Gdańsk cũng có nhiều tên suốt chiều dài lịch sử của nó.
 
Tên của một nơi định cư được ghi sau cái chết của St. Adalbert năm 997 [[công Nguyên|sau Công Nguyên]] là ''urbs Gyddanyzc''<ref name=Tighe>Carl Tighe, "Gdańsk: national identity in the Polish-German borderlands", Pluto Press, 1990, [http://books.google.com/books?id=MkBpAAAAMAAJ&q=Gyddanyzc&dq=Gyddanyzc]</ref> và sau đó được viết là ''Kdanzk'' (1148), ''Gdanzc'' (1188), ''Danceke''<ref>[http://books.google.com/books?id=VfEeAAAAMAAJ&dq=%22Zwantepolc+de%22&q=Zwantepolc&pgis=1#search Marian Gumowski: Handbuch der polnischen Siegelkunde, 1966]</ref> (1228), ''Gdansk'' (1236, 1454, 1468, 1484, 1590), ''Danzc'' (1263), ''Danczk'' (1311, 1399, 1410, 1414–1438), ''Danczik'' (1399, 1410, 1414),<ref name=Tighe/> ''Danczig ''(1414), ''Gdąnsk'' (1636).
 
Trong [[tiếng Ba Lan]] tên hiện đại của thành phố này được phát âm là {{IPAc-pl|AUD|Pl-Gdańsk.ogg|'|g|d|a|ń|s|k}}. Trong [[tiếng Anh]] (dấu phụ trên chữ "n" của tiếng Ba Lan bị bỏ đi) thì đọc là {{IPA-en|ɡəˈdænsk|}} hoặc {{IPA-en|ɡəˈdɑːnsk|}}.
 
Trong phần lớn lịch sử của thành phố, đa số cư dân là người nói [[tiếng Đức]], họ gọi thành phố là ''Danzig'' {{IPA-de|ˈdantsɪç||De-Danzig.ogg}}. Tên này cũng được dùng trong tiếng Anh<ref>[http://www.1911encyclopedia.org/Danzig Britannica 11th edition (published in 1911)]</ref> cho tới khi chấm dứt [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến thứ hai]], và vẫn còn được dùng trong các ngữ cảnh lịch sử. Các dạng tiếng Anh cũ của tên này là ''Dantzig'', ''Dantsic'' và ''Dantzic''.
 
Trong [[tiếng KashubianKashubia]]n thành phố được gọi là ''Gduńsk''. Tên [[latinh|tiếng Latin]] của thành phố thì hoặc là ''Gedania'', ''Gedanum'' hay ''Dantiscum''; tính chất bất đồng trong tên tiếng Latin phản ánh ảnh hưởng pha trộn của tên thành phố kế thừa từ tiếng Ba Lan, tiếng Đức và tiếng Kashubian.
 
=== Các tên lễ nghi ===
Dòng 72:
Các nơi định cư ban đầu được kết hợp với [[văn hóa Wielbark]]<ref>nửa đầu thế kỷ thứ nhất sau CN ở vùng thung lũng sông Wisła</ref>; sau [[thời kỳ đại di trú]]<ref>khoảng từ năm 300-700 CN ở châu Âu</ref>, họ được thay thế bởi việc định cư của bộ lạc [[Pomeranians]] dường như từ thế kỷ thứ 7.<ref name=Hess40>{{chú thích sách|title=Danziger Wohnkultur in der frühen Neuzeit|first=Corina|last=Hess|publisher=LIT Verlag|location=Berlin-Hamburg-Münster|year=2007|isbn=3825887111|page=40}}</ref> Trong thập niên 980, một thành lũy được xây dựng rất có thể là bởi [[Mieszko I của Ba Lan]] người mà bằng cách đó đã nối kết vương quốc [[Piast]] với các tuyến đường buôn bán của [[biển Baltic]].<ref name=Hess39>{{chú thích sách|title=Danziger Wohnkultur in der frühen Neuzeit|first=Corina|last=Hess|publisher=LIT Verlag|location=Berlin-Hamburg-Münster|year=2007|isbn=3825887111|page=39}}</ref> Bản chữ viết đầu tiên về thành lũy này là ''vita of [[Adalbert (Archbishop of Magdeburg)|Saint Adalbert]]'', được viết năm 999 và mô tả các biến cố năm 997.<ref name=Hess39/> Niên đại này thường được coi như năm thành lập Gdańsk ở Ba Lan. Năm 1997 thành phố đã làm lễ kỷ niệm một ngàn năm khi thánh [[Adalbert của Praha]] rửa tội cho các cư dân của nơi định cư này nhân danh vua [[Bolesław I Chrobry]] của Ba Lan. Trong thế kỷ 12, nơi định cư này trở thành một phần của đất công tước [[Samborides]] bao gồm một nơi định cư ở Long Market hiện đại, các nơi định cư của thợ thủ công cùng với ''Altstädter Graben'' ditch, các nơi định cư của người Đức buôn bán chung quanh nhà thờ ''thánh Nicolas'' và thành lũy Piast cũ.<ref name=Hess40/> Năm 1186, một tu viện [[dòng Xitô]] được dựng lên ở gần [[Oliwa]], mà nay nằm trong ranh giới thành phố. Năm 1215, thành luỹ của công tước trở thành trung tâm của [[đất công tước Pomorskie]]. Các năm 1224, 1225, các người Đức trong tiến trình chiếm thuộc địa ở phía đông (''Ostsiedlung'') thiết lập một nơi định cư trong khu vực của pháo đài trước kia.{{chú thích needed|date=tháng 10 năm 2009}}
 
Khoảng năm 1235, nơi định cư này được công tước Pomorskie cấp các đặc quyền của thành phố theo [[luật Lübeck]]<ref>tiếng Đức: Lübisches Recht</ref>, một luật đặc quyền của thành phố tự trị của Đức, tương tự như của [[Lübeck]] nơi cũng là nguồn gốc sơ khai của nhiều người tới định cư.<ref name=Hess40/> Năm 1300, thành phố có số dân ước tính là 2.000.<ref name=Hess4041>{{chú thích sách|title=Danziger Wohnkultur in der frühen Neuzeit|first=Corina|last=Hess|publisher=LIT Verlag|location=Berlin-Hamburg-Münster|year=2007|isbn=3825887111|pages=40–41}}</ref> Khi thành phố còn chưa là một trung tâm thương mại quan trọng vào thời đó, nó đã có một sự liên quan thương mại nào đó với vùng [[Đông Âu]].<ref name=Hess4041/> Năm 1308, thành phố nổi loạn và [[Hiệp sĩ Teuton]] được gửi tới để tái lập trật tự. Sau đó họ nắm quyền kiểm soát thành phố.<ref name=Hess41>{{chú thích sách|title=Danziger Wohnkultur in der frühen Neuzeit|first=Corina|last=Hess|publisher=LIT Verlag|location=Berlin-Hamburg-Münster|year=2007|isbn=3825887111|page=41}}</ref> Vụ thảm sát 10.000 cư dân thời Trung cổ đã được nhận thức cách khác nhau trong văn học hiện đại:<ref name=Boockmann158>[[Hartmut Boockmann]], ''Ostpreussen und Westpreussen'', Siedler, 2002, p.158, ISBN 3-88680-212-4</ref> trong khi một số nguồn ghi rằng đó là sự kiện có thật,<ref name="p.376">James Minahan, One Europe, Many Nations: A Historical Dictionary of European National Groups, Greenwood Publishing Group, 2000, ISBN 0-313-30984-1, [http://books.google.com/books?id=NwvoM-ZFoAgC&pg=PA376&dq=1308+Gdansk+massacre&as_brr=3&ei=cilQSPHSMom2iwGE8JU0&sig=OR_a7-g10jIZsYOJGkmBe5ZwfSY p.376]</ref> thì các nguồn khác bác bỏ, coi như một sự mô tả thổi phồng quá đáng ở thời Trung cổ.<ref name=Boockmann158/> Vụ được cho là thảm sát này được vua Ba Lan sử dụng như chứng cứ trong một vụ kiện tụng tới giáo hoàng sau này.<ref name=Boockmann158/><ref name="Thomas Urban">Thomas Urban: "[http://www.thomas-urban.pl/gdansk.php Rezydencja książąt Pomorskich]". {{pl icon}}</ref> Các hiệp sĩ Teuton chiếm khu vực làm thuộc địa, thay thế các người Kashubians địa phương bằng các người Đức tới định cư.<ref name="p.376"/> Năm 1308, họ lập ''Hakelwerk'' gần thành phố, ban đầu như một nơi cư ngụ của các ngư phủ người [[Người Slav|Slav]].<ref name=Hess41/> Năm 1340, dòng Hiệp sĩ Teuton xây một pháo đài lớn, trở thành trụ sở của [[Komtur]] của dòng hiệp sĩ.<ref name=Hess4142>{{chú thích sách|title=Danziger Wohnkultur in der frühen Neuzeit|first=Corina|last=Hess|publisher=LIT Verlag|location=Berlin-Hamburg-Münster|year=2007|isbn=3825887111|pages=41–42}}</ref> Năm 1343, họ thiết lập ''Rechtstadt'', cái tương phản với thành phố tồn tại trước kia (từ đó ''Altstadt'', "Old Town" hoặc ''Stare Miasto'') được ban đặc quyền bằng [[luật Kulm]].<ref name=Hess41/> Năm 1358, Danzig gia nhập liên minh [[Hanse]], và trở thành một hội viên hoạt động năm 1361.<ref name=Hess42>{{chú thích sách|title=Danziger Wohnkultur in der frühen Neuzeit|first=Corina|last=Hess|publisher=LIT Verlag|location=Berlin-Hamburg-Münster|year=2007|isbn=3825887111|page=42}}</ref> Thành phố duy trì quan hệ với các trung tâm thương mại [[Brügge]], [[Veliky Novgorod|Novgorod]], [[Lisbon|Lisboa]] và [[Seville|Sevilla]].<ref name=Hess42/> Năm 1377, ranh giới của thành phố cổ được mở rộng.<ref name=Hess41/> Năm 1380, ''Neustadt'' (''thành phố mới'') được thành lập như nơi định cư độc lập thứ tư.<ref name=Hess41/>
 
[[Tập tin:Pl gdansk zuraw dlugiepobrzeze2006.jpg|nhỏ|phải|Cổng thời trung cổ gọi là ''Żuraw'' trên sông [[Motława]]]]
Dòng 93:
[[Tập tin:Gdańsk - Ratusz Głównego Miasta (by Sfu).jpg|nhỏ|phải|Tháp nhọn của nóc Tòa thị chính, với tượng vua [[Sigismund II Augustus]] mạ vàng trên đỉnh (đặt năm 1561), vượt lên hình bóng Long Market nổi trên bầu trời.<ref>{{pl icon}} {{chú thích web |author = |url = http://www.mhmg.gda.pl/international/?lang=eng&oddzial=1 |title = The Main Town Hall |work = www.mhmg.gda.pl |publisher = |pages = |page = |date = |accessdate = 2008-12-29}}</ref>]]
 
Thế kỷ 18 thành phố bị suy giảm kinh tế do các cuộc chiến tranh. Sau cuộc [[vây hãm Danzig (1734)]] nó bị người [[Nga]] chiếm năm 1734. Danzig bị [[vương quốc Phổ]] sát nhập năm 1793, chỉ được [[Napoléon Bonaparte|Napoléon]] cho tách ra như thành phố độc lập giả hiệu từ năm 1807 tới 1814. Trở lại trực thuộc Phổ sau khi Pháp bị đánh bại trong [[Các cuộc chiến tranh của Napoléon]], thành phố trở thành thủ phủ của vùng Danzig (''Regierungsbezirk Danzig'') thuộc tỉnh [[Tây Phổ]] từ năm 1815. Năm 1871, thành phố trở thành một phần của [[đế quốc Đức]].
 
Trải qua lịch sử lâu dài, Gdańsk/Danzig ở dưới các thời kỳ cai trị của các nước khác nhau trước năm 1945 (trong ngoặc đơn là ngôn ngữ của đa số cư dân trong các thời kỳ đó):
Dòng 111:
[[Tập tin:Gdanskmemorial.jpg|150px|nhỏ|phải|Đài kỷ niệm các người phòng thủ Gdańsk]]
 
Khi Ba Lan giành lại độc lập sau [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Thế chiến thứ nhất]] với lối ra biển như phe đồng minh của Thế chiến thứ nhất đã hứa căn cứ trên [[14 điểm]] của "[[Woodrow Wilson]]" (điểm 13 đòi "một nước Ba Lan độc lập", "sẽ được bảo đảm một lối ra biển tự do và an toàn"), các người Ba Lan đã hy vọng cảng của thành phố này cũng sẽ thuộc Ba Lan. Tuy nhiên, vì cuộc điều tra dân số năm 1919 xác định là 98% số dân của thành phố là người Đức,<ref>''Encyclopaedia Britannica'' Year Book, 1938,{{Verify source|date=March 2008}}</ref> không có nhiều số dân Ba Lan, nên thành phố đã không đặt dưới chủ quyền của Ba Lan, mà, theo [[Hòa ước Versailles|Hiệp ước Versailles]], trở thành [[thành phố tự do Danzig]], gần như một nước độc lập dưới sự che chở của [[Hội Quốc Liên]] với việc đối ngoại phần lớn dưới sự kiểm soát của Ba Lan. Điều này dẫn tới tình trạng rất căng thẳng giữa thành phố và [[Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan]] (''Rzeczpospolita Polska'' (1918-1939). Thành phố tự do có [[hiến pháp]], [[quốc ca]], [[nghị viện]] (''[[Volkstag]]'') cùng cơ quan cai trị (''Senat'') riêng, và cũng phát hành tem thư cũng như tiền tệ riêng.
 
[[Tập tin:Nazi World War II poster Danzig is German.jpg|trái|nhỏ|Áp phích tuyên truyền của Đức quốc xã : "[[Thành phố tự do Danzig|Danzig]] là của Đức".]]
Dân số Đức của [[thành phố tự do Danzig]] thích được tái sát nhập vào nước Đức. Trong đầu thập niên 1930, đảng [[Quốc xã]] địa phương đã lợi dụng các tình cảm thân Đức này và năm 1933 thu được 50% phiếu bầu vào nghị viện. Sau đó, các người Quốc xã dưới quyền [[Gauleiter]]<ref>người lãnh đạo đảng Quốc xã địa phương</ref>[[Albert Forster]] đã giành được sự thống trị trong cơ quan cai trị thành phố, cơ quan mà trên danh nghĩa do [[Cao ủy]] của [[Hội Quốc Liên]] giám sát. Các người Quốc xã yêu cầu trả lại Danzig cho Đức cùng với quốc lộ xuyên qua khu vực [[hành lang Ba Lan]] đặt dưới quyền lãnh ngoại (''extraterritorial'') (nghĩa là dưới quyền tài phán của Đức) làm đường bộ đi lại giữa các khu vực Đức đã bị phân chia cách tự nhiên sau [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Thế chiến thứ nhất]].<ref>See ''Documents Concerning the German Polish Relations and the Outbreak of Hostilities between Great Britain and Germany on 3 tháng 9 năm 1939.'' See also the Soviet archived, ''Documents Relating to the Eve of the Second World War'' Volume II: 1938-1939 (New York: International Publishers), 1948.</ref> Chính phủ Ba Lan đồng ý trên nguyên tắc đề nghị này, cho tới tháng 3 năm 1939 khi [[Liên minh quân sự Anh-Ba Lan]] hủy bỏ [[Hiệp ước bất tương xâm Đức-Ba Lan]] năm 1934, và chấm dứt thiện ý của Ba Lan về thương thuyết nhượng địa. Sau đó các quan hệ Ba Lan-Đức đã nhanh chóng xấu đi, thậm chí còn leo thang dẫn tới các cuộc đụng độ biên giới. Chính phủ Quốc xã Đức hiểu rằng [[sức mạnh quân sự]] của mình kém các lực lượng phối hợp [[Anh]], [[Pháp]], [[Ba Lan]] và [[Xô viết|Xô Viết]], nên cuộc [[xâm chiếm Ba Lan]] ngày 1 tháng 9 chỉ thực hiện sau khi đã đạt được [[Hiệp ước Xô-Đức|Hiệp ước Molotov–Ribbentrop]] vào cuối tháng 8, hy vọng sẽ thương thuyết giải pháp hòa bình với Anh và Pháp sau khi kết thúc các sự thù địch.<ref>See ''Documents Concerning the German Polish Relations and the Outbreak of Hostilities between Great Britain and Germany on 3 tháng 9 năm 1939''. Hitler's change of position is well reflected in Goebbel's personal diary. See also the Soviet archived, ''Documents Relating to the Eve of the Second World War'' Volume II: 1938-1939 (New York: International Publishers), 1948.</ref> Cuộc xâm lược Ba Lan này được coi như khởi đầu [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến thứ hai]].
 
Thế chiến thứ hai khởi đầu ở Danzig, bằng việc chiến hạm ''[[SMS Schleswig-Holstein]]'' của Đức oanh tạc các vị trí Ba Lan ở [[Westerplatte]], và cuộc đổ bộ của bộ binh Đức lên bán đảo. Quân phòng thủ của Ba Lan ở Westerplatte đông hơn, đã kháng cự 7 ngày trước khi hết đạn dược. Trong lúc đó – sau một cuộc chiến đấu dữ dội suốt ngày (1.9.1939) – quân Ba Lan phòng thủ nhà [[Bưu Điện]] đã bị giết và chôn ở một nơi trong khu [[Zaspa]] ở Danzig trong tháng 10 năm 1939. Để ăn mừng việc Westerplatte đầu hàng, đảng Quốc xã đã tổ chức một đêm diễu binh ngày 7 tháng 9 cùng với Adolf-Hitlerstrasse bị một thủy phi cơ Ba Lan cất cánh từ [[bán đảo Hel]] tình cờ tấn công. Thành phố bị [[Đức Quốc Xã|Đức Quốc xã]] chính thức sát nhập vào [[Reichsgau Danzig-West Prussia]] (tỉnh Danzig-Tây Phổ).
 
[[Tập tin:Sonderstempel2.jpg|nhỏ|trái|"Danzig là của Đức". Tem thư do Đức quốc xã phát hành để kỷ niệm việc sát nhập Danzig vào [[Germany]] sau cuộc [[xâm chiếm Ba Lan]].<ref>Translation: The postage seal reads: "''Danzig greets joyously her leader and liberator, Adolf Hitler.''"</ref>]]
Dòng 122:
Phần lớn [[cộng đồng Do Thái Kehilla]] ở Danzig đã có thể chạy trốn Quốc xã ngay trước khi nổ ra chiến tranh. Cơ quan [[Gestapo]] đã theo dõi các cộng đồng người Ba Lan từ năm 1936, thu thập thông tin, mà năm 1939 được sử dụng để lập danh sách các người Ba Lan sẽ bị bắt trong [[cuộc hành quân Tannenberg]]. Trong ngày đầu tiên của chiến tranh có xấp xỉ 1.500 người Ba Lan đã bị bắt, một số vì tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội; số khác vì họ là những người hoạt động tích cực và thành viên của các tổ chức Ba Lan khác nhau. Ngày 2.9.1939, có 150 người trong số họ đã bị đày tới [[Trại tập trung Stutthof]] cách Danzig khoảng 30 dặm và bị giết.<ref>[http://www.kki.net.pl/~museum/museums.htm Museums Stutthof in Sztutowo]. Truy cập 31 tháng 1 năm 2007.</ref> Nhiều người Ba Lan cư ngụ ở Danzig đã bị đày tới trai tập trung Stutthof hoặc bị xử tử trong rừng [[Piaśnica]].
 
Năm 1941, chế độ Quốc xã mở [[chiến dịch Barbarossa|cuộc xâm lăng Liên Xô]], cuối cùng gây ra tai họa chiến tranh chống lại mình. Năm 1944 khi [[Hồng quânQuân|Quân đội Xô viết]] tiến tới, dân Đức ở [[Trung Âu]] và [[Đông Âu]] đã chạy trốn, đưa đến kết quả là bắt đầu một việc thay đổi dân số lớn. Sau cuộc tấn công cuối cùng của quân đội Xô viết khởi sự từ tháng Giêng năm 1945, hàng trăm ngàn người Đức đã di cư, nhiều người từ [[Đông Phổ]] đã đi bộ tới Danzig (xem [[cuộc di tản của Đông Phổ]]). Rất nhiều người tìm cách chạy trốn qua cổng thành tới các tàu thủy và tàu chở hàng. Một số tàu đã bị quân đội Xô viết đánh chìm, trong đó có tàu ''[[MV Wilhelm Gustloff]]''. Trong quá trình này, hàng chục ngàn người di cư đã bị giết.
 
Thành phố cũng đã bị Đồng Minh và Liên Xô ném bom nhiều. Những người sống sót và không thể chạy trốn đã chạm trán quân đội Xô viết khi họ chiếm thành phố ngày 30.3.1945. Thành phố bị hư hại nặng.<ref>[http://www.gdansk.pl/en/article.php?category=453&article=926&history=453: Gdansk, history. Official website. {{en icon}}]</ref> Phù hợp với các quyết định của Đồng Minh trong [[Hội nghị Yalta]] và [[Hội nghị Potsdam]], thành phố trở thành trực thuộc Ba Lan. Các cư dân Đức trong thành phố còn sống sót sau chiến tranh thì chạy trốn hoặc bị trục xuất cưỡng bách về Đức, và thành phố được người Ba Lan tới cư ngụ, nhiều người trong số họ bị Liên Xô trục xuất từ vùng [[Kresy]]<ref>vùng biên giới phía đông Ba Lan rộng 201.015 km<sup>2</sup> bị Liên Xô sát nhập vào các nước [[Ukraina]], [[Belarus]] và [[Litva]]</ref>.
Dòng 199:
* [[Petrobaltic]] – năng lượng
* [[Delphi Corporation|Delphi]] - automotive parts
* [[Intel Corporation|Intel]] - IT
* [[IBM]] - IT
* [[Fineos]] - IT
Dòng 273:
* [[Nhà thờ Đức Bà, Gdańsk|Nhà thờ Đức Bà]] (''Bazylika Mariacka''), một nhà thờ của thị xã được xây từ thế kỷ 15, là nhà thờ bằng gạch lớn nhất thế giới.
* Nhà thờ thánh Nicholas
* Nhà thờ [[Ba Ngôi|Chúa Ba Ngôi]]
 
[[Tàu bảo tàng]] ''[[SS Sołdek|SS Soldek]]'' thả neo trên sông [[Motława]], là tàu thủy đầu tiên của Ba Lan được đóng sau chiến tranh.
Dòng 322:
* {{flagicon|Finland}} [[Turku]] của [[Phần Lan]] <small>''(since 1987)''</small> <ref name="Gdańsk"/>
* {{flagicon|Spain}} [[Barcelona]] của [[Tây Ban Nha]] <small>''(since 1990)''</small> <ref name="Gdańsk"/><ref name="Barcelona">{{chú thích web|url=http://w3.bcn.es/XMLServeis/XMLHomeLinkPl/0,4022,229724149_257215678_1,00.html|title=Barcelona internacional - Ciutats agermanades|publisher=© 2006-2009 [http://www.bcn.es/catala/copyright/welcome2.htm Ajuntament de Barcelona]|language=Spanish|accessdate=2009-07-13}}</ref>
* {{flagicon|USA}} [[Cleveland, Ohio|Cleveland]] của [[Hoa Kỳ]] <small>''(since 1990)''</small> <ref name="Gdańsk"/>
* {{flagicon|Sweden}} [[Kalmar]] của [[Thụy Điển]] <small>''(since 1991)''</small> <ref name="Gdańsk"/>
* {{flagicon|Denmark}} [[Helsingør]] của [[Đan Mạch]] <small>''(since 1992)''</small> <ref name="Gdańsk"/>
Dòng 337:
* {{flagicon|Lithuania}} [[Vilnius]] của [[Litva]] <small>''(since 1998)''</small> <ref name="Gdańsk"/>
* {{flagicon|France}} [[Nice]] của [[Pháp]] <small>''(since 1999)''</small> <ref name="Gdańsk"/>
* {{flagicon|PRC}} [[Thượng Hải|Shanghai]], [[Trung Quốc|Trung quốc]] <small>''(since 2004)''</small> <ref name="Gdańsk"/>
* {{flagicon|Italy}} [[Palermo]], [[Ý]] <small>''(since 2005)''</small> <ref name="Gdańsk"/>
* {{flagicon|Poland}} [[Bytów]] của [[Ba Lan]] <small>''(since 2007)''</small><ref>[http://www.bytow.com.pl/index_en.php Bytów official web site]</ref>