Khác biệt giữa bản sửa đổi của “SMS König”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n r2.7.2+) (Bot: Đổi sr:SMS Кениг thành sr:СМС Кениг
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng; sửa cách trình bày
Dòng 13:
|Ship builder=[[Kaiserliche Werft Wilhelmshaven|Xưởng tàu Đế chế]], [[Wilhelmshaven]]
|Ship original cost=
|Ship laid down= [[tháng mười|tháng 10]] năm [[1911]]
|Ship launched= [[1 tháng 3]] năm [[1913]]
|Ship sponsor=
Dòng 34:
{{Infobox ship characteristics
|Ship class= [[König (lớp thiết giáp hạm)|Lớp thiết giáp hạm ''König'']]
|Ship displacement= {{convert|25390|LT|t}} (thiết kế)<br /> {{convert|28600|LT|t}} (đầy tải)
|Ship length= {{convert|175,4|m|ftin|abbr=on}}
|Ship beam= {{convert|29,5|m|ftin|abbr=on}}
|Ship draft= {{convert|9,19|m|ftin|abbr=on}}
|Ship propulsion= 3 × turbine hơi nước Parsons <br /> 15 × nồi hơi Schulz-Thornycroft (3 × đốt dầu & 12 × đốt than) <br /> 3 × trục <br /> công suất {{convert|43300|shp|MW|abbr=on}}
|Ship speed= {{convert|21,2|kn|lk=on}}
|Ship range= {{convert|8000|nmi|lk=on|-1|abbr=on}} ở tốc độ {{convert|12|kn}}
|Ship endurance= {{convert|3000|LT|MT}} than <br /> {{convert|600|LT|MT}} dầu
|Ship boats=
|Ship complement= 1.218
Dòng 47:
|Ship sensors=
|Ship EW=
|Ship armament= 10 × pháo [[Hải pháo SK 30,5 cm L/50|SK {{convert|30,5|cm|in|abbr=on}} L/50]]<br />
14 × pháo [[Hải pháo 15 cm Schnelladekanone L/45|{{convert|15|cm|in|abbr=on}}]]<br />
10 × pháo {{convert|8,8|cm|in|abbr=on}}<br />
5 × ống phóng [[ngư lôi]] {{convert|50|cm|in|1|abbr=on}}
|Ship armor= đai giáp chính: {{convert|350|mm|in|abbr=on}};<br />sàn tàu: {{convert|30|mm|in|abbr=on}};<br />tháp pháo và tháp chỉ huy: {{convert|300|mm|in|abbr=on}}
|Ship aircraft=
|Ship aircraft facilities=
Dòng 58:
|}
 
'''SMS ''König'''''<ref group="Ghi chú">"SMS" là từ viết tắt trong [[tiếng Đức]] của "''[[Seiner Majestät Schiff]]''", có nghĩa "tàu của [[Bệ hạ]]", tương đương với HMS trong [[tiếng Anh]].</ref> là chiếc dẫn đầu cho lớp [[thiết giáp hạm]] [[König (lớp thiết giáp hạm)|''König'']] được [[Hải quân Đế quốc Đức]] chế tạo trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Chiến tranh Thế giới thứ nhất]]. König (tiếng Đức, nghĩa là [[Vua|Quốc vương]]) được đặt tên nhằm tôn vinh [[Hoàng đế]] (''[[Kaiser]]'') [[Wilhelm II của Đức|Wilhelm II]] của [[Đế quốc Đức|Đức]], là vua nước [[Phổ]] đồng thời cũng là [[Hoàng đế Đức]]. ''König'' được đặt lườn vào ngày [[tháng mười|tháng 10]] năm [[1911]] và được hạ thủy vào ngày [[1 tháng 3]] năm [[1913]]. Việc trang bị cho ''König'' được hoàn tất không lâu sau khi chiến tranh nổ ra, và nó được đưa ra hoạt động cùng [[Hạm đội Biển khơi Đức]] vào ngày [[9 tháng 8]] năm [[1914]].
 
Cùng với ba chiếc tàu chị em cùng lớp [[SMS Grosser Kurfürst (1913)|''Grosser Kurfürst'']], [[SMS Markgraf|''Markgraf'']] và [[SMS Kronprinz (1914)|''Kronprinz'']], ''König'' đã tham gia hầu hết các hoạt động của hạm đội trong chiến tranh. Là chiếc dẫn đầu [[hàng chiến trận]] Đức vào ngày [[31 tháng 5]] năm [[1916]] trong [[trận Jutland]], nó đã đối đầu quyết liệt với nhiều thiết giáp hạm Anh Quốc và bị bắn trúng mười phát đạn pháo hạng nặng. Vào [[tháng mười|tháng 10]] năm [[1917]], nó đã buộc chiếc [[thiết giáp hạm tiền-dreadnought]] của Nga [[Slava (thiết giáp hạm Nga)|''Slava'']] phải tự đánh đắm trong [[chiến dịch Albion]] tại [[vịnh Riga]].
 
''König'' bị lưu giữ cùng với hầu hết Hạm đội Biển khơi tại căn cứ của [[Hải quân Hoàng gia Anh]] tại [[Scapa Flow]] vào [[tháng mười một|tháng 11]] năm [[1918]] sau [[Đình chiến với Đức|thỏa thuận Đình chiến]]. Vào ngày [[21 tháng 6]] năm [[1919]], [[Chuẩn Đô đốc]] [[Ludwig von Reuter]] ra lệnh [[Đánh đắm Hạm đội Đức tại Scapa Flow|đánh đắm hạm đội]] trong khi các tàu Anh làm nhiệm vụ canh phòng tiến ra khỏi cảng để tập trận. ''König'' chìm lúc 14 giờ 00. Không giống như đa số các tàu bị đánh đắm khác, ''König'' chưa từng được cho nổi lên; xác tàu đắm của nó hiện vẫn còn nằm dưới đáy vũng biển.
 
== Thiết kế và chế tạo ==
{{bài chính|Lớp thiết giáp hạm König}}
''König'' được đặt hàng dưới cái tên tạm thời "S"<ref group="Ghi chú">Mọi tàu chiến Đức được đặt hàng dưới cái tên tạm thời: những bổ sung mới cho hạm đội được đặt một ký tự, trong khi những chiếc dự định để thay thế một tàu chiến cũ được đặt tên "[[Ersatz]] (tên tàu được thay thế)"; khi hoàn tất, nó sẽ được đặt cái tên dự định dành cho nó. Xem: Gröner, trang 27.</ref> và được chế tạo tại xưởng tàu của hãng [[Kaiserliche Werft Wilhelmshaven|Kaiserliche Werft]] ở [[Wilhelmshaven]] dưới số hiệu chế tạo 33.<ref name=G27>{{Harvnb|Gröner|1990|p=27}}</ref> Nó được đặt lườn vào [[tháng mười|tháng 10]] năm [[1911]] và được hạ thủy vào ngày [[1 tháng 3]] năm [[1913]]. Công việc trang bị được hoàn tất vào ngày [[9 tháng 8]] năm [[1914]], ngày mà nó được đưa ra hoạt động cùng [[Hạm đội Biển khơi Đức]].<ref name=G28>{{Harvnb|Gröner|1990|p=28}}</ref> Nó đã làm tiêu tốn cho Chính phủ Đế quốc Đức 45 triệu [[Mác vàng Đức]].<ref name=G27/><ref group="Ghi chú">Vào lúc đó, 1 [[Mác vàng Đức]] tương đương 0,288 [[Đô la Mỹ]]; số tiền chế tạo tương đương 12.960.000 Đô la. Quy đổi theo tỉ lệ lạm phát, ''König'' trị giá 295.395.429 Đô la vào năm 2009. xem: Herwig, phần "Abbreviations and Conversions".</ref> Là chiếc đầu tiên trong lớp của nó, ''König'' được tiếp nối với sự tham gia của những chiếc ''Grosser Kurfürst'', ''Markgraf'' và ''Kronprinz''.<ref group="Ghi chú">''Kronprinz'' sau này được đổi tên thành ''Kronprinz Wilhelm''.</ref>
 
''König'' có [[trọng lượng choán nước]] tiêu chuẩn {{convert|25796|t|ST|abbr=on}} khi chế tạo và lên đến {{convert|28600|t|ST|abbr=on}} khi đầy tải nặng, với chiều dài {{convert|175.4|m|ft|abbr=on}}, [[mạn thuyền]] rộng {{convert|19,5|m|ft|abbr=on}} và độ sâu của mớn nước là {{convert|9,19|m|ft|abbr=on}}. Nó được vận hành bởi ba [[tuốc bin hơi nước|turbine hơi nước]] Parsons, sản sinh ra tổng công suất {{convert|43300|shp|MW|abbr=on}} và đặt được tốc độ tối đa {{convert|21|kn|km/h|abbr=on}}.<ref name=G27/>
 
Nó được trang bị mười khẩu pháo [[Hải pháo SK 30,5 cm L/50|SK {{convert|30,5|cm|in|abbr=on}} L/50]] bố trí trên năm [[tháp pháo]] nòng đôi: hai tháp pháo bắn thượng tầng phía trước và hai phía sau, cùng một tháp pháo thứ năm giữa hai ống khói.<ref name=G28/> ''König'' là thiết giáp hạm Đức đầu tiên bố trí toàn bộ các khẩu pháo chính của nó trên trục giữa. Giống như những chiếc thuộc [[Kaiser (lớp thiết giáp hạm)|lớp ''Kaiser'']] trước đó, ''König'' có thể xoay toàn bộ các khẩu pháo chính bắn qua cả hai bên mạn tàu, nhưng chiếc tàu mới có góc bắn rộng hơn do cách bố trí hoàn toàn dàn pháo chính trên trục giữa.<ref>{{Harvnb|Gardiner|1984|p=147}}</ref> Dàn pháo hạng hai bao gồm mười bốn khẩu {{convert|15|cm|in|abbr=on}}, sáu khẩu {{convert|8,8|cm|in|abbr=on}} và năm ống phóng [[ngư lôi]] {{convert|50|cm|in|abbr=on}} ngầm, gồm ống một trước mũi và hai ống mỗi bên mạn.<ref name=G28/>
Dòng 78:
 
=== Các hoạt động tại Bắc Hải ===
''König'' tham gia nhiều đợt xuất quân của Hạm đội để hỗ trợ cho các [[tàu chiến-tuần dương]] của Đội Tuần tiễu 1 dưới quyền [[Chuẩn Đô đốc]] [[Franz von Hipper]]. Tuy nhiên, do sự cố bị mắc cạn ngoài khơi Wilhelmshaven,<ref name=S29/> Con tàu đã lỡ mất chiến dịch đầu tiên của các tàu chiến-tuần dương trong đêm [[15 tháng 12|15]]–[[16 tháng 12]] năm [[1914]], khi chúng được giao nhiệm vụ bắn phá bờ biển Anh Quốc để thu hút một phần lực lượng của [[Hạm đội Grand Anh Quốc|Hạm đội Grand]] vào cái bẫy mà hạm đội Đức đang giăng sẵn chờ đợi.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=31–33}}</ref> Vào ngày [[22 tháng 1]] năm [[1915]], ''König'' cùng phần còn lại của Hải đội Chiến trận 3 được cho tách ra khỏi hạm đội để tiến hành các cuộc huấn luyện cơ động, tác xạ và ngư lôi tại [[biển Baltic]]. Chúng quay trở lại [[Bắc Hải (định hướng)|Bắc Hải]] vào ngày [[11 tháng 2]] để trợ giúp Đội Tuần tiễu 1 trong [[Trận Dogger Bank (1915)|trận Dogger Bank]].<ref name=S29/>
 
''König'' sau đó tham gia một loạt các cuộc tiến quân hạm đội vào Bắc Hải. Vào ngày [[29 tháng 3|29]]–[[30 tháng 3]], con tàu dẫn đầu hạm đội tiến lên phía Bắc [[Terschelling]]; ba tuần sau, vào ngày [[17 tháng 4|17]]-[[18 tháng 4]], nó hỗ trợ cho một hoạt động rải mìn của các [[tàu tuần dương hạng nhẹ]] thuộc Đội Tuần tiễu 2 ngoài khơi [[Swarte Bank]]. Một cuộc tiến quân khác diễn ra vào ngày [[22 tháng 4]], một lần nữa ''König'' dẫn đầu hạm đội. Vào ngày [[23 tháng 4]], Hải đội Chiến trận 3 quay trở lại khu vực biển Baltic cho một lượt tập trận khác kéo dài cho đến ngày [[10 tháng 5]]. Một chiến dịch rải mìn khác được Đội Tuần tiễu 2 thực hiện vào ngày [[17 tháng 5]], có các thiết giáp hạm hỗ trợ.<ref name=S29/>
Dòng 93:
''König'' đã có mặt trong cuộc xuất quân của hạm đội vốn đã đưa đến [[trận Jutland]] vào ngày [[31 tháng 5]]-[[1 tháng 6]] năm [[1916]]. Hoạt động này là một nỗ lực lặp lại các kế hoạch trước đây dự định thu hút một phần Hạm đội Grand để tiêu diệt chúng trước khi phần chủ lực của Hạm đội Anh có thể đáp trả. ''König'' được tiếp nối bởi những chiếc cùng lớp ''Grosser Kurfürst'', ''Markgraf'' và ''Kronprinz'' hình thành nên Đội 5 trực thuộc Hải đội Chiến trận 3, là đơn vị đi tiên phong của hạm đội, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc [[Paul Behncke]], đặt cờ hiệu của mình trên [[soái hạm]] ''König''. Ngay phía sau chúng l̀à những chiếc [[Kaiser (lớp thiết giáp hạm)|lớp ''Kaiser'']] thuộc Đội 6 của Hải đội Chiến trận 3, rồi tiếp theo là những chiếc lớp [[Helgoland (lớp thiết giáp hạm)|''Helgoland'']] và [[Nassau (lớp thiết giáp hạm)|''Nassau'']] thuộc Hải đội Chiến trận 2, và sau cùng là các [[thiết giáp hạm tiền-dreadnought]] [[Deutschland (lớp thiết giáp hạm)|lớp ''Deutschland'']] già cỗi thuộc Hải đội Chiến trận 1.<ref name=T286/>
 
Không lâu trước 16 giờ 00 [[giờ chuẩn Trung Âu|giờ Trung Âu]],<ref group="Ghi chú">Nước Đức thuộc về múi giờ Trung Âu, một giờ sớm hơn [[giờ GMT]]. Thời gian nêu trong bài này thuộc múi giờ này, sớm hơn so với các công trình nghiên cứu của Anh Quốc.</ref> các tàu chiến-tuần dương thuộc Đội Tuần tiễu 1 đối đầu với Hải đội Tuần chiến-Tuần dương 1 Anh Quốc dưới quyền chỉ huy của Đô đốc [[David Beatty, Bá tước thứ nhất Beatty|David Beatty]]. Các lực lượng đối địch bắt đầu một cuộc đấu pháo, vốn đã đưa đến việc phá hủy chiếc [[HMS Indefatigable (1909)|HMS ''Indefatigable'']] không lâu sau 17 giờ 00,<ref>{{Harvnb|Tarrant|2001|p=94–95}}</ref> rồi đến lượt [[HMS Queen Mary|HMS ''Queen Mary'']] không đầy nữa giờ sau đó.<ref>{{Harvnb|Tarrant|2001|p=100–101}}</ref> Vào lúc này, các tàu chiến-tuần dương Đức di chuyển về phía Nam nhằm thu hút các tàu chiến Anh về phía lực lượng chủ lực của Hạm đội Biển khơi. Đến 17 giờ 30, thiết giáp hạm Đức dẫn đầu ''König'' nhìn thấy cả Đội Tuần tiễu 1 của Đức bên mạn phải và Hải đội Tàu chiến-tuần dương 1 của Anh bên mạn trái. Đến 17 giờ 45 phút, Scheer ra lệnh bẻ lái 2 point (22,5°)<ref group="Ghi chú">La bàn có thể chia thành 32 point, mỗi point tương ứng với 11,25°. Bẻ lái 2 point sang mạn trái sẽ làm đổi hướng con tàu 22,5 độ.</ref> sang mạn trái để đưa các con tàu của ông đến gần hơn các tàu chiến-tuần dương Anh. Lệnh khai hỏa được đưa ra chỉ một phút sau đó.<ref>{{Harvnb|Tarrant|2001|p=110}}</ref>
 
''König'' cùng với ''Grosser Kurfürst'' và ''Markgraf'' là những chiếc đầu tiên đến được tầm bắn hiệu quả, chúng đã tuần tự đối đầu với các tàu chiến-tuần dương [[HMS Lion (1910)|''Lion'']], [[HMS Princess Royal (1911)|''Princess Royal'']] và [[HMS Tiger (1913)|''Tiger'']] tương ứng ở khoảng cách {{convert|21000|yd|m|abbr=on}}.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=110-111}}</ref> Loạt đạn pháo đầu tiên của ''König'' đã không với tới mục tiêu, nên nó chuyển hỏa lực sang chiếc tàu chiến Anh ở gần hơn là ''Tiger''. Cùng một lúc, ''König'' và các tàu chị em đã nổ súng vào các [[tàu khu trục]] [[HMS Nestor (1915)|''Nestor'']] và [[HMS Nicator|''Nicator'']] bằng dàn pháo hạng hai của chúng.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=111}}</ref> Hai con tàu Anh đã tiếp cận hàng chiến trận Đức, và mặc dù chịu đựng một màn hỏa lực dày đặc, vẫn cơ động vào vị trí tấn công thuận tiện. Mỗi chiếc đã phóng hai ngư lôi nhắm vào ''König'' và ''Grosser Kurfürst'', mặc dù tất cả đều bị trượt. Đáp trả lại, một quả đạn pháo hạng hai từ một trong các thiết giáp hạm đã đánh trúng ''Nestor'' làm hỏng phòng động cơ. Nó cùng với tàu khu trục [[HMS Nomad|''Nomad'']] bị đánh hỏng nằm chắn ngay hướng tiến của hàng chiến trận Đức. Cả hai chiếc tàu khu trục đều bị đánh chìm, và các tàu phóng lôi Đức đã dừng lại để vớt những người sống sót.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=114}}</ref> Vào khoảng 18 giờ 00, ''König'' cùng ba tàu chị em chuyển hỏa lực sang những thiết giáp hạm [[Queen Elizabeth (lớp thiết giáp hạm)|lớp ''Queen Elizabeth'']] thuộc Hải đội Chiến trận 5 của Anh đang đến gần. ''König'' thoạt tiên đối đầu với [[HMS Barham (04)|''Barham'']] cho đến khi đối thủ đi ra ngoài tầm bắn; nó chuyển mục tiêu sang chiếc [[HMS Valiant (1914)|''Valiant'']]. Tuy nhiên, các thiết giáp hạm Anh với tốc độ nhanh hơn đã di chuyển ra ngoài tầm bắn hiệu quả.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=116}}</ref>
Dòng 99:
Vào khoảng 19 giờ 00, tàu tuần dương [[SMS Wiesbaden|''Wiesbaden'']] bị đánh bất động do một quả đạn pháo từ tàu chiến-tuần dương Anh [[HMS Invincible (1908)|''Invincible'']]; Chuẩn Đô đốc [[Paul Behncke]] trên chiếc ''König'' dự định cơ động các con tàu của mình hỗ trợ cho con tàu bị đánh hỏng.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=137}}</ref> Cùng lúc đó, các hải đội tuần dương nhẹ 3 và 4 của Anh bắt đầu một đợt tấn công bằng ngư lôi vào hàng chiến trận Đức; trong khi tiến đến đủ khoảng cách để phóng ngư lôi, chúng tấn công ''Wiesbaden'' bằng hỏa lực của dàn pháo chính. ''König'' cùng các tàu chị em đã nhắm vào các tàu tuần dương Anh, nhưng việc chịu đựng hỏa lực pháo hạng nặng của thiết giáp hạm đối phương không đủ để đánh đuổi các tàu tuần dương Anh.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=138}}</ref> Trong cuộc chiến hỗn loạn diễn ra sau đó, [[tàu tuần dương bọc thép]] [[HMS Defence (1907)|''Defence'']] bị bắn trúng nhiều phát đạn pháo hạng nặng từ những chiếc dreadnought Đức. Một loạt đạn pháo đã xuyên thủng hầm đạn của con tàu, và một vụ nổ dữ dội sau đó đã phá hủy nó hoàn toàn.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=140}}</ref>
 
Không lâu sau 19 giờ 20 phút, một lần nữa ''König'' đi vào tầm bắn đối với thiết giáp hạm [[HMS Warspite (03)|''Warspite'']] và nó khai hỏa vào mục tiêu, có sự tham gia của các chiếc dreadnought [[SMSsMS Friedrich der GrosseGroße (1911)|''Friedrich der Grosse'']], [[SMS Ostfriesland|''Ostfriesland'']], [[SMS Helgoland|''Helgoland'']] và [[SMS Thüringen|''Thüringen'']]. Tuy nhiên, ''König'' nhanh chóng mất dấu ''Warspite'' vì nó đang trong quá trình bẻ lái sang hướng Đông Đông Bắc.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=142–143}}</ref> Gần như đồng loạt, các tàu khu trục và tàu tuần dương nhẹ của Anh tìm cách tung một đợt tấn công bằng ngư lôi khác vào những chiếc dẫn đầu hàng chiến trận Đức, kể cả ''König''. Không lâu sau đó, lực lượng chủ lực Anh tiến vào tầm bắn đối với hạm đội Đức; và vào lúc 19 giờ 30 phút, các thiết giáp hạm Anh khai hỏa nhắm vào cả lực lượng tàu chiến-tuần dương lẫn các thiết giáp hạm lớp ''König''. Bản thân ''König'' chịu đựng một màn hỏa lực ác liệt vào giai đoạn này. Trong vòng 5 phút, [[HMS Iron Duke|''Iron Duke'']] bắn 9 loạt đạn pháo nhắm vào ''König'' ở khoảng cách {{convert|12000|yd|km|abbr=on}}, nhưng chỉ bắn trúng một phát. Quả đạn pháo 13,5 inch bắn trúng tháp chỉ huy phía trước, nhưng đã không xuyên thủng mà lại nảy tung lên và phát nổ cách con tàu {{convert|50|yd|km|abbr=on}}. Chuẩn Đô đốc Behncke bị thương, nhưng vẫn tiếp tục chỉ huy con tàu. Sau đó ''König'' bị che khuất bởi khói và tạm thời tránh bị hỏa lực đối phương nhắm đến.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=145}}</ref>
 
Đến 20 giờ 00, hàng chiến trận Đức được lệnh bẻ lái sang hướng Đông để tách ra khỏi Hạm đội Anh. Là chiếc dẫn đầu, ''König'' hoàn tất việc chuyển hướng và giảm tốc độ để những chiếc theo sau nó quay trở lại đội hình. Không lâu sau đó, bốn tàu tuần dương hạng nhẹ Anh tiếp tục cuộc tấn công chiếc ''Wiesbaden'' đã bị đánh hỏng; những chiếc dẫn đầu hành chiến trận Đức, bao gồm ''König'', khai hỏa vào các tàu tuần dương Anh để tìm cách ngăn chặn.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=169}}</ref> Các thiết giáp hạm Anh đang đuổi theo vào lúc này quay về phía Nam, hầu như [[cắt ngang chữ T]] hàng chiến trận Đức. Để chữa lại tình thế, Đô đốc Scheer ra lệnh chuyển hướng 16 point về phía Nam, đồng thời tung các tàu chiến-tuần dương của Hipper ra tấn công về hướng Hạm đội Anh.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=173}}</ref> Trong khi đổi hướng, ''König'' bị đánh trúng một quả đạn pháo 13,5 inch từ chiếc ''Iron Duke'' ngay phía sau tháp pháo tận cùng. ''König'' chịu đựng những hư hại cấu trúc đáng kể, nhiều phòng ngập đầy khói. Trong khi bẻ lái sang mạn phải, Tư lệnh Hải đội Chiến trận 1, Phó Đô đốc Schmidt, quyết định quay mũi các con tàu của ông ngay lập tức thay vì tuần tự quay mũi tiếp nối theo những chiếc dẫn trước. Điều này đã gây ra một sự lộn xộn lớn, suýt đưa đến nhiều vụ va chạm. Kết quả là nhiều chiếc thiết giáp hạm Đức buộc phải giảm tốc độ bất ngờ, đưa toàn bộ hạm đội vào tình thế nguy hiểm.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=175}}</ref> Trong một cố gắng làm giảm nhẹ tình trạng khó khăn, ''König'' quay mũi sang mạn trái và thả một màn khói giữa hai hàng chiến trận Anh và Đức.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=177}}</ref>
Dòng 106:
 
=== Các hoạt động tiếp theo ===
Sau khi hoàn tất việc sửa chữa, ''König'' được phái đến Baltic để huấn luyện từ cuối [[tháng bảy|tháng 7]] đến đầu [[tháng tám|tháng 8]]; nó quay trở lại Bắc Hải vào ngày [[5 tháng 8]]. Trong đợt xuất quân của hạm đội vào ngày [[18 tháng 8|18]]-[[19 tháng 8]], với ''König'' lại dẫn đầu,<ref name=S30/> Đội Tuần tiễu 1 được giao nhiệm vụ bắn phá thị trấn ven biển [[Sunderland, Tyne và Wear|Sunderland]] nhằm lôi kéo và tiêu diệt các tàu chiến-tuần dương của Beatty. Do chỉ có [[SMS Moltke (1910)|''Moltke'']] và [[SMS Von der Tann|''Von der Tann'']] là hai tàu chiến-tuần dương Đức còn hoạt động được trong đội, thiết giáp hạm mới được đưa vào hoạt động [[SMS Bayern (1915)|''Bayern'']] và hai chiếc chị em của ''König'' là ''Markgraf'' và ''Grosser Kurfürst'' tạm thời được bổ sung cho đơn vị này trong chiến dịch. Đô đốc Scheer cùng phần còn lại của Hạm đội Biển khơi, bao gồm 15 chiếc dreadnought, sẽ theo sau bảo vệ.<ref>{{harvnb|Massie|2003|p=682}}</ref> Phía Anh đã biết được kế hoạch của Đức và đã cho toàn bộ Hạm đội Grand xuất trận để đối đầu. Đến 14 giờ 35 phút, Scheer được cảnh báo về sự xuất hiện của Hạm đội Grand, và vì không muốn đối đầu với toàn bộ Hạm đội Grand chỉ mười một tuần sau khi trận Jutland kết thúc, nên đã quay mũi lực lượng của mình rút lui trở về các cảng Đức.<ref>{{harvnb|Massie|2003|p=683}}</ref>
 
''König'' ở lại trong cảng cho đến ngày [[21 tháng 10]], khi nó lại được phái đến Baltic để huấn luyện; con tàu quay trở lại gia nhập hạm đội vào ngày [[3 tháng 11]]. ''König'' cùng phần còn lại của Hải đội Chiến trận 3 di chuyển ra [[Horns Reef]] trong các ngày [[5 tháng 11|5]]–[[6 tháng 11]]; sau đó nó được phân công nhiều nhiệm vụ khác nhau, bao gồm việc canh phòng tại [[German Bight]] và hộ tống các đoàn tàu vận tải tại khi vực Baltic. Nhiều nhiệm vụ huấn luyện được thực hiện tại Baltic trong các ngày [[22 tháng 2]]–[[4 tháng 3]] năm [[1917]], [[14 tháng 3|14]]–[[22 tháng 3]] và [[17 tháng 5]]–[[9 tháng 6]]. Sau đó ''König'' đi đến Wilhelmshaven để bảo trì vào ngày [[16 tháng 6]]; việc trang bị một cột ăn-ten trước cùng các công việc khác kéo dài cho đến ngày [[21 tháng 7]]. Vào ngày [[10 tháng 9]], ''König'' lại đi đến Baltic cho một đợt huấn luyện cơ động.<ref name=S30/>
Dòng 112:
=== Chiến dịch Albion ===
{{Details|Chiến dịch Albion}}
Vào đầu [[tháng chín|tháng 9]] năm [[1917]], sau khi Đức chiếm được cảng [[Riga]] của Nga, Hải quân Đức quyết định xóa sổ lực lượng Hải quân Nga vốn còn đang trụ lại [[vịnh Riga]]. Nhằm mục đích này, Bộ Tổng Tư lệnh Hải quân (Admiralstab) vạch ra một chiến dịch tại [[quần đảo Moonsund]], đặc biệt nhắm vào các khẩu đội pháo Nga trên [[bán đảo Sõrve|bán đảo Sworbe]] thuộc [[Saaremaa|Ösel]].<ref>{{Harvnb|Halpern|1995|p=213}}</ref> Ngày [[18 tháng 9]], mệnh lệnh được đưa ra cho một chiến dịch phối hợp Lục-Hải quân nhằm chiếm các đảo Ösel và [[Muhu|Moon]]; lực lượng hải quân chủ yếu bao gồm [[soái hạm]] ''Moltke'' cùng với Hải đội Chiến trận 3 của Hạm đội Biển khơi, gồm có Đội 5 bao gồm bốn chiếc lớp ''König'', vào lúc này được bổ sung thêm chiếc thiết giáp hạm mới ''Bayern'', và Đội 6 bao gồm năm chiếc lớp ''Kaiser''. Cùng với chín tàu tuần dương hạng nhẹ, ba chi hạm đội tàu phóng ngư lôi cùng nhiều [[tàu rải mìn]] và [[tàu quét mìn]], toàn bộ lực lượng bao gồm khoảng 300 tàu chiến, được sự hỗ trợ của trên 100 máy bay và sáu khí cầu [[khí cầu Zeppelin|zeppelin]]. Lực lượng tấn công gồm khoảng 24.600 sĩ quan và binh sĩ.<ref>{{Harvnb|Halpern|1995|p=214-215}}</ref> Đối đầu với lực lượng Đức là các [[thiết giáp hạm tiền-dreadnought]] cũ của Nga [[Slava (thiết giáp hạm Nga)|''Slava'']] và [[Tsesarevich (thiết giáp hạm Nga)|''Tsarevitch'']], các [[tàu tuần dương bọc thép]] ''Bayan'', ''Admiral Makarov'' và ''Diana'', 26 tàu khu trục, nhiều tàu phóng lôi và pháo hạm, cùng một lực lượng đồn trú tại Ösel với khoảng 14.000 người cùng các khẩu đội pháo phòng thủ duyên hải.<ref name=H215>{{Harvnb|Halpern|1995|p=215}}</ref>
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 146-1970-074-34, Besetzung der Insel Ösel, Truppenanlandung.jpg|nhỏ|phải|Lực lượng Đức đổ bộ tại Ösel|alt=A small white boat filled with soldiers passes in front of a large warship with three tall funnels and several smaller transport ships.]]
''König'' rời Kiel vào ngày [[23 tháng 9]] đi [[vịnh Puck|vịnh Putziger]], nơi con tàu ở lại cho đến ngày [[10 tháng 10]].<ref name=S30/> Chiến dịch bắt đầu vào ngày [[12 tháng 10]]; lúc 03 giờ 00 ''König'' thả neo ngoài khơi Ösel tại vịnh Tagga và cho đổ bộ binh lính. Đến 05 giờ 50 phút, ''König'' khai hỏa vào các công sự pháo phòng thủ duyên hải của Nga,<ref name=S31>{{Harvnb|Staff|2010|p=31}}</ref> có sự tham gia của ''Moltke'', ''Bayern'' và ba chiếc tàu chị em còn lại trong lớp ''König''. Cùng lúc đó, những chiếc thuộc lớp ''Kaiser'' đối đầu với các khẩu đội trên bán đảo Sworbe; mục tiêu là nhằm bình định eo biển giữa các đảo Moon và [[Hiiumaa|Dagö]], án ngữ lối thoát duy nhất của các con tàu Nga trong vịnh. Cả ''Grosser Kurfürst'' lẫn ''Bayern'' đều bị trúng [[thủy lôi|mìn]] trong lúc cơ động vào vị trí bắn phá; ''Grosser Kurfürst'' chỉ bị hư hại nhẹ, nhưng ''Bayern'' bị hư hại nặng đến mức phải rút lui về [[Kiel]] để sửa chữa.<ref name=H215/> Đến 17 giờ 30 phút, ''König'' rời khỏi khu vực để tiếp nhiên liệu; nó quay trở lại eo biển Irben vào ngày [[15 tháng 10]].<ref name=S31/>
Dòng 123:
Sau khi ''König'' quay trở lại từ Baltic, con tàu được giao nhiệm vụ canh phòng tại Bắc Hải và hỗ trợ các tàu quét mìn. ''König'' trở lại khu vực Baltic vào ngày [[22 tháng 12]] để huấn luyện, vốn kéo dài cho đến ngày [[8 tháng 1]] năm [[1918]]. Một lượt thực tập khác được tiến hành từ ngày [[23 tháng 2]] đến ngày [[11 tháng 3]]. Vào ngày [[20 tháng 4]], ''König'' xuất quân để hỗ trợ một lực lượng tuần tra Đức đối đầu với lực lượng Anh. Con tàu nằm trong thành phần lực lượng đi đến [[Na Uy]] đánh chặn một đoàn tàu vận tải được hộ tống mạnh mẻ vào ngày [[23 tháng 4|23]]–[[25 tháng 4]], cho dù chiến dịch bị hủy bỏ khi tàu chiến-tuần dương ''Moltke'' gặp trục trặc cơ khí. ''König'' bị mắc cạn một lúc ngắn tại cảng phía Bắc của [[Helgoland]] vào ngày [[30 tháng 5]]. Hai tháng sau, vào ngày [[31 tháng 7]], ''König'' cùng phần còn lại của Hải đội Chiến trận 3 bảo vệ một đơn vị quét mìn tại Bắc Hải. Sau đó con tàu đi đến khu vực Baltic để huấn luyện từ ngày [[7 tháng 8|7]] đến ngày [[18 tháng 8]], rồi ''König'' quay lại Bắc Hải. Nó thực hiện đợt huấn luyện cuối cùng tại Baltic vào ngày [[28 tháng 9]] và kéo dài cho đến ngày [[1 tháng 10]].<ref name=S31/>
 
''König'' được dự định để tham gia hoạt động cuối cùng của hạm đội vào cuối [[tháng mười|tháng 10]] năm [[1918]], nhiều ngày trước khi [[Hiệp định Đình chiến với Đức]] có hiệu lực. Phần lớn Hạm đội Biển khơi sẽ xuất phát từ căn cứ của chúng ở Wilhelmshaven để đối đầu với Hạm đội Grand của Anh; [[Reinhard Scheer]], lúc này là [[Đại Đô đốc]] (''Großadmiral'') của Hạm đội, dự định gây tổn thất cho Hải quân Anh càng nhiều càng tốt nhằm duy trì một vị thế mặc cả tốt cho việc thương lượng hòa bình của Đức bất chấp tổn thất có thể phải chịu đựng. Tuy nhiên, nhiều người trong số những thủy thủ đã mệt mỏi vì chiến tranh cảm thấy chiến dịch này sẽ ngăn trở tiến trình hòa bình và kéo dài thời hạn chiến tranh.<ref>{{harvnb|Tarrant|1995|p=280–281}}</ref> Sáng ngày [[29 tháng 10]] năm [[1918]], mệnh lệnh được đưa ra để chuẩn bị khởi hành từ Wilhelmshaven để tập trung lực lượng tại [[Jade Estuary]] vào ngày hôm sau. Bắt đầu từ đêm [[29 tháng 10]], thủy thủ trên chiếc ''Thüringen'' làm [[Binh biến Wilhelmshaven|binh biến]].<ref>{{harvnb|Tarrant|1995|p=281–282}}</ref> Sự bất ổn lan rộng ra các tàu chiến khác, bao gồm ''König''.<ref name=S31/> Chiến dịch cuối cùng bị hủy bỏ; và trong một cố gắng để dập tắt cuộc nổi loạn, Scheer ra lệnh phân tán hạm đội.<ref name=T282>{{harvnb|Tarrant|1995|p=282}}</ref> ''König'' cùng phần còn lại của Hải đội Chiến trận 3 được gửi đến Kiel. Trong vụ nổi loạn này, thuyền trưởng của ''König'' bị thương ba lần, trong khi cả thuyền phó lẫn sĩ quan phụ tá đều bị thiệt mạng.<ref name=S31/>
 
=== Số phận ===
{{bài chính|Đánh đắm Hạm đội Đức tại Scapa Flow}}
[[Tập tin:Internment at Scapa Flow.svg|nhỏ|400px|Bản đồ vị trí các con tàu bị đánh đắm tại Scapa Flow. ''König'' được đánh dấu với số 7|alt=A map designating the locations where the German ships were sunk.]]
Sau khi Đức đầu hàng vào [[tháng mười một|tháng 11]] năm [[1918]], hầu hết tàu chiến của Hạm đội Biển khơi, kể cả ''König'', bị lưu giữ tại căn cứ hải quân Anh tại [[Scapa Flow]], dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc [[Ludwig von Reuter]].<ref name=T282/> Trước khi Hạm đội Đức khởi hành, Đô đốc [[Adolf von Trotha]] khẳng định lại với von Reuter chỉ thị không được để cho phe Đồng Minh chiếm các con tàu trong bất kỳ tình huống nào.<ref name=H256>{{Harvnb|Herwig|1980|p=256}}</ref> Hạm đội đã gặp gỡ [[tàu tuần dương hạng nhẹ]] Anh [[HMS Cardiff|''Cardiff'']], vốn đã dẫn đầu các con tàu Đức đi đến điểm gặp gỡ hạm đội Đồng Minh, một lực lượng khổng lồ bao gồm 370 tàu chiến của Anh, Mỹ và Pháp,<ref>{{Harvnb|Herwig|1980|p=254-255}}</ref> vốn sẽ hộ tống hạm đội Đức đến Scapa Flow. Khi bị lưu giữ trong suốt thời gian diễn ra các cuộc đàm phán hòa bình, mà sau này cuối cùng sẽ dẫn đến [[Hòa ước Versailles|Hiệp ước Versailles]],<ref name=H256/> các khẩu pháo của chúng bị bất hoạt bằng cách tháo bỏ [[khóa nòng]], và con tàu được bảo trì bởi một thủy thủ đoàn gồm số lượng sĩ quan và thủy thủ tối thiểu.<ref>{{Harvnb|Herwig|1980|p=255}}</ref>
 
Một bản in của báo ''[[The Times]]'' cung cấp thông tin cho von Reuter rằng Thỏa thuận Ngừng bắn sẽ hết hiệu lực vào giữa trưa ngày [[21 tháng 6]] năm [[1919]], thời hạn cuối cùng mà Đức phải ký vào Hiệp định hòa bình. Đô đốc Von Reuter đưa đến kết luận người Anh sẽ tìm cách chiếm hữu các con tàu Đức sau khi Thỏa thuận Ngừng bắn hết hiệu lực. Không biết rằng thời hạn của thỏa thuận đã được triển hạn đến ngày [[23 tháng 6]],<ref group="Ghi chú">Đã có sự tranh luận rằng liệu von Reuter có biết là thỏa thuận đã được triển hạn hay không. Đô đốc Anh [[Sydney Fremantle]] cho rằng ông đã thông báo điều này cho von Reuter vào tối ngày [[20 tháng 6]], nhưng von Reuter xác định ông không biết gì về sự tiến triển trong đàm phán. Về tuyên bố của Fremantle, xem Bennett, trang 307; về phát biểu của von Reuter, xem Herwig, trang 256.</ref> ông quyết định [[Đánh đắm Hạm đội Đức tại Scapa Flow|đánh đắm]] các con tàu của mình vào cơ hội thuận tiện đầu tiên có được. Sáng ngày [[21 tháng 6]], Hạm đội Anh rời Scapa Flow tiến hành thực tập huấn luyện; và đến 11 giờ 20 phút Reuter truyền mệnh lệnh này đến các con tàu của mình.<ref name=H256/> ''König'' chìm lúc 14 giờ 00. Không giống như các tàu chiến chủ lực bị đánh đắm khác, nó chưa bao giờ được cho nổi trở lại. Quyền trục vớt xác đắm của con tàu trong tương lai được bán cho Anh vào năm [[1962]].<ref name=G28/>
Dòng 138:
{{Tham khảo|2}}
=== Thư mục ===
* {{chú thích sách | last=Bennett | first=Geoffrey | authorlink=Geoffrey Bennett | title=Naval Battles of the First World War | year=2005 | location=[[Luân Đôn|London]] | publisher=Pen & Sword Military Classics | isbn=1844153002 | oclc=57750267}}
* {{chú thích sách | last=Campbell | first=John | title=Jutland: An Analysis of the Fighting | year=1998 | location=[[Luân Đôn|London]] | publisher=Conway Maritime Press | isbn=1-55821-759-2}}
* {{chú thích sách | editor1-last=Gardiner | editor1-first=Robert | editor2-last=Gray | editor2-first=Randal | title=Conway's All the World's Fighting Ships: 1906–1922 | year=1984 | location=Annapolis | publisher=Naval Institute Press | isbn=0-87021-907-3}}
* {{chú thích sách | last=Gröner | first=Erich | title=German Warships: 1815–1945 | year=1990 | location=[[Annapolis]] | publisher=Naval Institute Press | isbn=0-87021-790-9 | oclc=22101769}}
Dòng 153:
 
{{DEFAULTSORT:Konig}}
 
[[Thể loại:Lớp thiết giáp hạm König]]
[[Thể loại:Thiết giáp hạm của Hải quân Đức]]