Khác biệt giữa bản sửa đổi của “George Wells Beadle”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 13:
| doctoral_advisor = Franklin D. Keim
| doctoral_students =
| known_for = Việc điều chỉnh của [[gen|gien]] ở các sự kiện hóa sinh bên trong các tế bào
| prizes = [[Giải Albert Lasker cho nghiên cứu Y học cơ bản]] (1950)<br />[[Danh sách người đoạt giải Nobel Sinh lý học và Y khoa|Giải Nobel Sinh lý và Y khoa]] (1958)
| religion = [[Kitô giáo]]
| footnotes =
}}
'''George Wells Beadle''' ( 22.10 [[1903]] – 9.6.[[1989]]) là nhà [[di truyền học]] người [[Hoa Kỳ|Mỹ]], đã đoạt [[danh sách người đoạt giải Nobel Sinh lý học và Y khoa|giải Nobel Sinh lý và Y khoa]] chung với [[Edward Lawrie Tatum]] cho công trình phát hiện ra vai trò của [[gen|gien]] trong việc điều chỉnh các sự kiện [[hóa sinh]] bên trong các [[tế bào]]
 
Các thí nghiệm then chốt của Beadle và Tattum gồm việc phơi bày [[mốc]] bánh mì ''[[Neurospora crassa]]''<ref>loại mốc thuộc ngành Ascomycota</ref> trước các [[tia X]], đã gây ra các [[đột biến sinh học|đột biến]]. Trong một loạt thí nghiệm, họ đã chỉ ra rằng các đột biến này gây ra các biến đổi trong các [[enzym]] đặc thù liên quan tới các [[đường trao đổi chất]]. Các thí nghiệm này đã khiến họ đưa ra một sự liên kết trực tiếp giữa các [[gen|gien]] và các phản ứng enzym, được gọi là giả thuyết "một gien, một enzym".
 
== Cuộc đời và Sự nghiệp ==
Beadle sinh tại [[Wahoo]], [[Nebraska]]. Ông đậu bằng [[cử nhân (định hướng)|cử nhân]] [[khoa học]] về [[nông nghiệp]] ở Trường Nông nghiệp [[Đại học Nebraska]] năm 1926, nơi ông là hội viên của Hội ái hữu [[FarmHouse]]. Theo sự tiến cử của Franklin D. Keim - cố vấn của ông – ông vào học trường Nông nghiệp ở [[Đại học Cornell]], định học khoa [[sinh thái học]], nhưng ông sớm tập chú vào [[di truyền học]] và [[tế bào học]], theo đuổi việc nghiên cứu di truyền của [[ngô]] dưới sự hướng dẫn của [[Rollins Adams Emerson]]—kể cả một vài sự cộng tác với [[Barbara McClintock]]. Ông đậu bằng [[tiến sĩ]] ở [[Đại học Cornell]] năm 1931.<ref>Berg and Singer, ''George Beadle: An Uncommon Farmer'', chapters 1-4</ref>
 
Beadle làm nghiên cứu [[hậu tiến sĩ]] ở phòng thí nghiệm ruồi của [[Thomas Hunt Morgan]] tại [[Học viện Công nghệ California]], nơi ông nghiên cứu với [[Alfred Sturtevant]] cùng các người khác về di truyền của loại ruồi giấm ''[[Ruồi giấm thường|Drosophila melanogaster]]''. Tại đây, khi làm việc với [[Boris Ephrussi]], ông đã giúp triển khai một kỹ thuật để cấy ghép các tế bào xa lạ vào ấu trùng ruồi (tạo ra con mắt thứ 3 ở bụng ruồi); kỹ thuật này được dùng để chứng minh rằng một số đột biến làm ảnh hưởng tới màu mắt bao hàm các [[gen|gien]] kiểm soát các bước trao đổi chất đặc thù trong việc sản xuất sắc tố của mắt. Trong một nỗ lực để định rõ đặc điểm chính xác các phản ứng và các chất có liên quan, ông đã tuyển mộ nhà hóa sinh [[Edward Lawrie Tatum]] để nghiên cứu vấn đề sắc tố. Cuối cùng họ đã cách ly và nhận dạng được sắc tố mà người tiền nhiệm đã tìm thấy trong cá thể đột biến "''vermilion''", nhưng làm quá vắn tắt theo một nhóm nhà nghiên cứu Đức độc lập. Sau công trình nghiên cứu ruồi giấm ''Drosophila melanogaster'', Beadle làm giáo sư ở [[Đại học Harvard]], rồi [[Đại học Stanford]].<ref>Berg and Singer, ''George Beadle: An Uncommon Farmer'', chapters 5-9</ref>
 
Cùng với Tatum, Beadle tập chú vào một [[sinh vật mẫu]] thích hợp hơn với di truyền hóa sinh : ''[[Neurospora]]'' <ref>một loại nấm túi</ref>. Bởi việc cấu tạo các dòng cá thể đột biến là đòi hỏi các yếu tố dinh dưỡng đặc thù (các [[axit amin|axít amin]] hoặc các [[vitamin]]), họ đã xác minh rằng các đột biến gien cá thể chịu trách nhiệm về các bước cá nhân trong việc trao đổi chất và việc tổng hợp các chất dinh dưỡng cần cho sự sống. Điều này đã dẫn tới việc đưa ra "[[giả thuyết một gien-một enzym]]," ý tưởng cho rằng 1 gien định rõ 1 enzym đơn, hơn là một bộ phức hợp các đặc tính (như quan niệm thông thường) vào năm 1941.<ref>Berg and Singer, ''George Beadle: An Uncommon Farmer'', chapters 9-11</ref>
 
Năm 1946, với sự hỗ trợ của [[Linus Pauling]], Beadle được bổ nhiệm làm người đứng đầu phân ban sinh học mới được tổ chức lại của Học viện Công nghệ California; phân ban này là một trong các phân ban đầu tiên trong lãnh vực sẽ trở thành ''[[sinh học phân tử]]''.
 
== Hoạt động chính trị ==
Vào đầu thời [[chiến tranh Lạnh|chiến tranh lạnh]], Beadle đã thẳng thắn bênh vực các đồng nghiệp bị điều tra vì tình nghi có liên hệ với các người [[chủ nghĩa cộng sản|cộng sản]], đồng thời cũng làm việc xác định cùng quảng bá các nguy hiểm tiềm tàng của bức xạ liên quan tới các [[vũ khí hạt nhân]].
 
== Giải thưởng ==
Năm 1958, Beadle và Tatum được thưởng [[danh sách người đoạt giải Nobel Sinh lý học và Y khoa|giải Nobel Sinh lý và Y khoa]] cho công trình nghiên cứu của họ về di truyền học hóa sinh. Ngoài [[giải Nobel]] nói trên, ông cũng đoạt [[Giải Albert Lasker cho nghiên cứu Y học cơ bản]] năm 1950.
 
Beadle làm chủ tịch [[Đại học Chicago]] từ 1961-1968, giúp—thông qua việc lập quỹ và tuyển mộ— để tái lập danh tiếng của trường như một đại học nghiên cứu hàng đầu. Năm 1966 ông xuất bản quyển ''The Language of Life''.<ref>Berg and Singer, ''George Beadle: An Uncommon Farmer'', chapters 12-17</ref>