Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Gheorghe Hagi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
RedBot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.2) (Bot: Sửa fa:گئورگی هاجی
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 9:
| clubnumber =
| height = {{height|m=1.72}}
| position = [[Tiền vệ (bóng đá)|Tiền vệ]]
| youthyears1 = 1978–1980
| youthyears2 = 1980–1981
Dòng 25:
| clubs1 = [[FC Farul Constanţa|Farul Constanţa]]
| clubs2 = [[FC Sportul Studenţesc Bucureşti|Sportul Studenţesc]]
| clubs3 = [[FCF.C. Steaua Bucureşti|Steaua Bucureşti]]
| clubs4 = [[Real Madrid C.F.|Real Madrid]]
| clubs5 = [[Brescia Calcio|Brescia]]
| clubs6 = [[FCF.C. Barcelona|Barcelona]]
| clubs7 = [[Galatasaray S.K. (football team)|Galatasaray]]
| caps1 = 18
Dòng 60:
| managerclubs3 = [[Galatasaray S.K. (football team)|Galatasaray]]
| managerclubs4 = [[FC Politehnica Timişoara|Politehnica Timişoara]]
| managerclubs5 = [[FCF.C. Steaua Bucureşti|Steaua Bucureşti]]
| managerclubs6 = [[Galatasaray S.K. (football team)|Galatasaray]]
}}
Dòng 66:
'''Gheorghe Hagi''' (sinh [[5 tháng 2]] năm [[1965]] tại Săcele, Constanţa) là một cầu thủ bóng đá người [[Romania]]. Anh nổi tiếng với kĩ tốc độ, kĩ thuật cá nhân điêu luyện và những cú sút xa rất chính xác.
 
Anh có biệt danh là "Maradona của vùng [[Carpaths]]", và người hùng của đất nước anh cũng như đất nước [[Thổ Nhĩ Kỳ]]. Anh đã 6 lần được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất năm tại Romania, đó là một kỉ lục. Và gần đây anh được bầu là cầu thủ vĩ đại nhất của Romania thế kỷ 20. Anh chơi cho [[đội tuyển bóng đá quốc gia Romania]] ở 3 kỳ [[Giải vô địch bóng đá thế giới|World Cup]] 1990, 1994, 1998 cùng với 3 kỳ [[Euro]] 1984, 1986, 2000. Anh có 125 lần khoác áo đội tuyển quốc gia, xếp thứ 2 sau [[Dorinel Munteanu]]. Anh là người ghi bàn nhiều nhất cho đội tuyển Romania với 35 bàn thắng. Tháng 11 năm 2003 nhân dịp kỉ niệm 50 năm ngày thành lập [[Liên đoàn bóng đá châu Âu|UEFA]], liên đoàn bóng đá Romania đã bầu anh là cầu thủ vàng của Romania 50 năm qua. Anh là một trong số ít cầu thủ chơi cho cả 2 câu lạc bộ kình địch của [[Tây Ban Nha]] là [[Real Madrid C.F.|Real Madrid]] và [[F.C. Barcelona|FC Barcelona]]. Tháng 3 năm 2004 anh được [[Pelé]] bầu chọn vào danh sách [[FIFA 100]].
 
== Sự nghiệp CLB ==
Dòng 73:
Mùa đông năm 1987 Hagi chuyển tới [[Steaua Bucureşti]], một câu lạc bộ lớn ở Romania và chuẩn bị cho trận tranh siêu cup Châu Âu với FC [[Dynamo Kyiv]]. Theo hợp đồng thì anh chỉ phải chơi duy nhất một trận ở đây. Dù trong trận chung kết anh chỉ ghi được 1 bàn nhưng Steaua cũng không muốn anh quay lại Sportul Studenţesc nữa và họ quyết giữ anh lại. Trong những năm ở [[Steaua]] 1987-1990 anh đã chơi tất cả 97 trận và ghi được 76 bàn thắng. Anh cùng với CLB của mình lọt vào bán kết cúp UEFA năm 1988 và lọt vào chung kết cúp này vào năm 1989. Anh đoạt chức vô địch Romania, và cúp Romania 3 năm liên tiếp 1987, 1988, 1989.
 
Sau World cup 1990 anh chuyển tới [[Real Madrid C.F.|Real Madrid]] với mức chuyển nhượng là 4,3 triệu [[đô la|dollar]]. Anh chơi ở Real Madrid 2 mùa bóng sau đó bị bán sang [[Brescia Calcio]].
 
Hagi đã giúp Brescia Calcio đoạt cúp vô địch [[Serie B]] và được lên chơi ở [[Giải vô địch bóng đá Ý|Serie A]], nhưng CLB này lại bị rớt xuống Serie B mùa giải sau đó và Hagi đã chuyển sang chơi cho Barcelona.
 
Sau 2 mùa bóng chơi cho Barcelona anh lại chuyển sang chơi cho [[Galatasaray S.K.|Galatasaray S.K]]. Hagi không đạt được cúp vô địch [[Tây Ban Nha]] nào cả với Real Madrid cũng như với Barcelona. Tuy nhiên ở Galatasaray anh chơi rất thành công với sự ủng hộ lớn của người dân Thổ Nhĩ Kỳ. Anh đã cùng Galatasaray đoạt cúp [[Liên đoàn bóng đá châu Âu|UEFA]] năm 2000 sau khi chiến thắng [[Arsenal F.C.|Arsenal]] ở trận chung kết. Sau đó anh lại đoạt siêu cúp [[Châu Âu]] sau khi thắng CLB cũ của mình, Real Madrid.
 
== Sự nghiệp đội tuyển quốc gia ==
Hagi xuất hiện ở đội tuyển quốc gia năm 1983 khi anh 18 tuổi trong trận gặp [[đội tuyển bóng đá quốc gia Na Uy|Na Uy]] tại [[Oslo]]. Anh là một thành viên quan trọng của đội tuyển cho đến năm 2000.
 
Hagi là cầu thủ xuất sắc nhất của Romania tại [[Giải vô địch bóng đá thế giới 1994|World Cup 1994]], tại giải đó đội tuyển của anh đã lọt được vào trận tứ kết, sau đó bị thua [[đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Điển|Thụy Điển]] trên chấm 11m. Tại giải đó anh đã ghi được 3 bàn trong đó có bàn vào lưới đội [[đội tuyển bóng đá quốc gia Colombia|Colombia]] là một trong những bàn đẹp nhất qua các kỳ WC. Bàn thắng đó anh lốc bóng từ khoảng cách 40 [[mét]], bóng đi theo hình vòng cung qua đầu thủ môn, một cú sút mà người ta vẫn gọi là "lá vàng rơi". Bốn năm sau, sau WC 1998 anh đã quyết đinh rời đội tuyển quốc gia, nhưng sau đó lại thay đổi quyết định và cùng đội tuyển tham dụ [[Giải vô địch bóng đá châu Âu 2000|Euro 2000]].
 
Anh giải nghệ năm 2001 ở tuổi 36.
 
== Sự nghiệp huấn luyện viên ==
Năm 2001 Hagi được mời làm huấn luyện viên đội tuyển Romania thay cho [[Ladislau Bölöni]], người đã chuyển sang huấn luyện cho câu lạc bộ Sporting của [[Bồ Đào Nha]]. Tuy nhiên sau khi thất bại ở [[Giải vô địch bóng đá thế giới 2002|World Cup 2002]] Hagi bị sa thải. Thành tích đáng kể trong 6 tháng huấn luyện cho đội tuyển Romania là chiến thắng [[đội tuyển bóng đá quốc gia Hungary|Hungary]] trên sân vận động ở [[Budapest]], thủ đô của [[Hungary]].
 
Năm 2003 anh đến Thổ Nhĩ Kỳ làm huấn luyện viên cho câu lạc bộ [[Bursaspor]] nhưng lại ra đi ngay sau mùa giải đó bởi lại gây thất vọng. Sau đó anh trở thành huấn luyện viên của Galatasaray vào năm 2004 và dẫn dắt họ đoạt cúp Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2005.
Dòng 105:
* {{flagicon|ESP}} '''[[Real Madrid C.F.|Real Madrid]]'''
** Siêu cúp TBN: 1990
* {{flagicon|ESP}} '''[[FCF.C. Barcelona|Barcelona]]'''
** Siêu cúp TBN: 1994
* {{flagicon|TUR}} '''[[Galatasaray S.K.|Galatasaray]]'''