Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tông Trạch”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Chú Thích: clean up, replaced: {{Reflist| → {{Tham khảo|
Dòng 14:
Năm Nguyên Hữu thứ 8 (1093), Tông Trạch được phái đến huyện Quán Đào, phủ Đại Danh làm huyện úy, kiêm công việc của huyện lệnh. Tông Trạch đến nhậm chức chưa đến một tháng, đã phán xét hết nhưng vụ án cũ đã tố tụng nhiều năm, bộc lộ tài năng xử lý chính vụ của mình, rất được các chức lại tín nhiệm và kính ngưỡng.
 
Năm Thiệu Thánh thứ 2 (1095), tri phủ Lữ Huệ Khanh lệnh cho Tông Trạch cùng đi tuần thị công trình tu sửa đê Hoàng Hà. Khi ấy Tông Trạch vừa có tang con trai cả, ông cố nén đau lòng, nhận lệnh lên đường. Lữ Huệ Khanh sau khi biết được, khen ngợi rằng: “Thật là một người vì nước quên nhà.” Bấy giờ, trời rét đất cứng, Tông Trạch trong khi tuần thị phát hiện không ít dân công ngã lăn bên đường, lập tức dâng thư lên trên, kiến nghị tạm dựngdừng công trình, đợi đến mùa xuân trời ấm lại làm tiếp. Triều đình đồng ý, mùa xuân năm sau, đê hoàn thành.
 
Từ năm Nguyên Phù thứ nhất (1098) đến năm Chính Hòa thứ 4 (1114), Tông Trạch làm tri huyện của 4 huyện Long Du, Cù Châu; Giao Thủy, Lai Châu; Triệu Thành, Tấn Châu; huyện Dịch, Lai Châu. Ông làm quan hơn 20 năm, luôn hết lòng hết sức, tạo phúc cho dân, nên chính tích lừng lẫy, được dân chúng yếu mến cậy nhờ. Nhưng bấy giờ gian thần nắm quyền, suốt một thời gian dài ông không được đề bạt và trọng dụng.