Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Khai thác mỏ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Tác động môi trường: clean up, replaced: |thumb| → |nhỏ|, [[Image: → [[Hình: using AWB
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
[[Tập tin:Chuquicamata-002.jpg|nhỏ|phải|200px|[[Chuquicamata]], [[Chile]], mỏ [[đồng]] lộ thiên có chu vi lớn nhất và độ sâu khai thác đứng hàng thứ hai trên thế giới.]]
 
'''Khai thác mỏ''' là hoạt động khai thác [[khoáng sản]] hoặc các vật liệu địa chất từ lòng đất, thường là các thân [[quặng]], [[mạch (địa chất)|mạch]] hoặc vỉa [[khai thác than|than]]. Các vật liệu được khai thác từ mỏ như [[kim loại cơ bản]], [[kim loại quý]], [[sắt]], [[urani]], [[than (định hướng)|than]], [[kim cương]], [[đá vôi]], [[đá phiến dầu]], [[Natri clorua|đá muối]] và [[kali cacbonat]]. Bất kỳ vật liệu nào không phải từ [[nông nghiệp|trồng trọt]] hoặc được tạo ra trong [[phòng thí nghiệm]] hoặc [[nhà máy]] đều được khai thác từ mỏ. Khai thác mỏ ở nghĩa rộng hơn bao gồm việc khai thác các nguồn [[tài nguyên không tái tạo]] (như [[dầu mỏ]], [[khí thiên nhiên]], hoặc thậm chí là [[nước chôn vùi|nước]]).
 
Khoảng 40.000 năm trước công nguyên, con người đã biết sử dụng mọi thứ xung quanh mình, kể cả đá cũng được dùng làm công cụ khai thác các khoáng sản. Sau một thời gian sử dụng hết những đá tốt trên bề mặt trái đất, con người bắt đầu đào bới để tìm những thứ họ cần. Những cái mỏ đầu tiên chỉ là những cái hố nông nhưng rồi những người khai mỏ sau buộc phải đào sâu thêm để tìm kiếm. Một trong những khoáng sản họ cần lúc bấy giờ là Hoàng Thổ, được dùng như sắc tố cho các mục đích lễ nghi và vẽ tranh trong hang động. Khu mỏ Hoàng Thổ được khai thác xưa nhất được tìm thấy là ở '''Bomvu Ridge''' thuộc '''Swaziland''', Châu Phi.
Dòng 7:
== Lịch sử ==
=== Khai thác mỏ thời tiền sử ===
[[Tập tin:TimnaChalcolithicMine.JPG|nhỏ|Mỏ đồng [[thời đại đồ đồng đá]] ở thung lũng Timna, [[negev|sa mạc Negev]], [[Israel]].]]
Từ khi bắt đầu thời kỳ văn minh con người đã sử dụng [[đá (địa chất)|đá]], [[gốm]] và sau đó là [[kim loại]] được tìm thấy trên bề mặt [[Trái Đất]]. Các loại vật liệu này cũng đã được sử dụng để tạo ra các [[công cụ]] và [[vũ khí]] trong thời kỳ này, như [[Đá lửa (lịch sử)|đá lửa]] chất lượng cao được tìm thấy ở miền bắc nước [[Pháp]] và miền nam [[Anh]] được sử dụng để tạo ra [[đá lửa (dụng cụ)|đá lửa]].<ref>Hartman, Howard L. ''SME Mining Engineering Handbook'', Society for Mining, Metallurgy, and Exploration Inc, 1992, tr.3.</ref> Các mỏ đá lửa được tìm thấy trong các khu vực có [[đá phấn]], ở đây các vỉa đá được đào ở dạng hầm. Các mỏ ở [[Grimes Graves]] rất nổi tiếng, và cũng giống như hầu hết các mỏ đá lửa khác, có tuổi thuộc [[thời đại đồ đá mới|thời kỳ đồ đá mới]] (khoảng 4000 TCN- khoảng 3000 TCN). Các loại đá cứng khác được khai thác hay thu thập để làm rìu bao gồm đá lục của [[rìu đá Langdale|công nghiệp rìu Langdale]] có cơ sở tại [[Lake District]] ở Anh.
 
Các mỏ được biết đến cổ nhất theo ghi nhận của khảo cổ học là "hang Lion" ở [[Swaziland]]. Ở đây, theo phương pháp [[định tuổi cacbon]] chứng minh rằng mỏ được khai thác cách đây khoảng 43.000 năm, những cư dân thuộc [[thời đại đồ đá cũ|thời kỳ đồ đá cũ]] đã khai thác [[hematit]], một khoáng vật chứa sắt được nghiền nhỏ để làm [[chất tạo màu]] đỏ [[đất son]].<ref>Swaziland Natural Trust Commission, "Cultural Resources - Malolotja Archaeology, Lion Cavern," Tra cứu 27-8-2007, [http://www.sntc.org.sz/cultural/malarch.asp].</ref><ref>Peace Parks Foundation, "Major Features: Cultural Importance." Republic of South Africa: Author. Tra cứu 27-8-2007, [http://www.peaceparks.org/story.php?mid=168&pid=148].</ref> Các mỏ cùng tuổi ở [[Hungary]] được xem là các vị trí mà người [[Người Neanderthal|Neanderthal]] đã từng khai thác [[đá lửa (lịch sử)|đá lửa]] để chế tạo vũ khí và dụng cụ.
 
=== Ai Cập cổ đại ===
Dòng 18:
[[Tập tin:Georgius Agricola.jpg|nhỏ|150px|trái|Agricola, tác giả quyển ''De Re Metallica'']]
[[Tập tin:Archscrew2.jpg|phải|nhỏ|200px|Guồng thoát nước từ mỏ Rio Tinto]]
Khai thác mỏ ở châu Âu đã có từ rất lâu, ví dụ như các mỏ bạc [[Laurium]], giúp phát triển thành phố Hy Lạp thuộc [[Athena|Athens]]. Tuy nhiên, [[La Mã cổ đại|người La Mã]] đã phát triển các phương pháp khai thác mỏ trên quy mô rộng, đặc biệt việc sử dụng một lượng nước lớn để mang quặng đi bằng cống thoát nước. Nước được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như để gạt bỏ lớp phủ và các đá vụn được gọi là [[khai thác mỏ thủy lực]], cũng như rửa quặng đã được nghiền nhỏ, và vận hành các máy đơn giản. Họ sử dụng phương pháp thủy lực trên diện rộng để thu các mạch quặng, đặc biệt các dạng khai thác lỗi thời hiện không còn dùng nữa như [[hushing]]. Nó liên quan đến việc xây dựng một lượng lớn các cống cung cấp nước đến đầu mỏ ( nơi đang khai thác), ở đây nước được chứa trong các bồn và bể lớn. Khi các bể chứa đầy được xả ra đẩy các vật liệu phủ làm lộ ra đá gốc và các mạch quặng nằm bên dưới. Đá lộ ra sau đó bị nung nóng bằng pháp đốt và bị làm lạnh bằng dòng nước. Sự thay đổi nhiệt độ nhanh làm cho đá bị vỡ ra và dễ thu hồi bằng các dòng nước từ các bồn chứa như cách bốc lớp phủ ở trên. Họ sử dụng phương pháp tương tự để thu hồi [[cassiterit]] ở [[Cornwall]] và quặng [[chì]] ở [[Pennines]]. Các phương pháp đã được phát triển bởi người La Mã ở [[Tây Ban Nha]] vào 25 CN để khai thác các mỏ vàng lớn trong [[bồi tích]], khu mỏ lớn nhất nằm ở [[Las Medulas]], ở đây có 7 hệ thống cống dài được xây dựng để lấy nước từ các con sông trong khu vực với mục đích là rửa quặng. [[Tây Ban Nha]] là một khu vực khai thác mỏ quan trọng nhất trong tất cả các khu vực khai thác của [[đế quốc La Mã|đế chế La Mã]]. Họ sử dụng [[guồng nước nghịch]] để tách nước từ các mỏ ở dưới sâu như ở [[Rio Tinto]]. Ở Anh, người bản địa đã khai thác [[khai thác mỏ ở Anh thời La Mã|mỏ]] khoáng sản các đây gần nghìn năm,<ref>[http://news.independent.co.uk/uk/this_britain/article2169254.ece The Independent, ngày 20 tháng 1 năm 2007: ''The end of a Celtic tradition: the last gold miner in Wales'']</ref> nhưng khi [[đế chếquốc La Mã|người La Mã]] đến, hoạt động khai thác đã thay đổi nhanh chóng. Người La Mã cần những thứ mà người Anh đang sở hữu, đặc biệt là [[vàng]], [[bạc]], [[thiếc]] và [[chì]]. Kỹ thuật của người La Mã không chỉ giới hạn trong việc khai thác trên mặt, mà họ còn khai thác theo các mạch quặng dưới lòng đất khi đó việc khai thác lộ thiên không còn là vấn đề khó khăn. Ở [[Dolaucothi]] họ dừng khai thác các mạch, và chuyển sang đào các lối vào xuyên qua các đá khô cằn để tiêu thoát nước đọng trong mỏ. Các đường này vẫn còn được sử dụng để thông gió cho công trình, đặc biệt rất quan trọng khi sử dụng phương pháp đốt. Ở các phần khác của mỏ, họ đào qua [[mực nước ngầm]] và lấy nước từ mỏ bằng các máy móc như [[guồng nước nghịch]]. Các máy này được sử dụng phổ biến trong các mỏ [[đồng]] ở [[Rio Tinto]], Tây Ban Nha, ở đây có 16 cái được xếp thành hai hàng có nhiệm vụ nâng khoảng {{convert|80|ft|m}}. Chúng được vận hành như các máy đi từng bước với thợ mỏ đứng trên thanh gỗ cao nhất. Một vài ví dụ như các bộ phận của nó được tìm thấy ở các mỏ La Mã cổ và một số được trưng bày trong [[bảo tàng Vương quốc Anh]] và [[bảo tàng quốc gia xứ Wales]].<ref>[http://www.romans-in-britain.org.uk/raw_mining.htm ''The Romans in Britain: mining'']</ref>
 
=== Châu Âu thời trung cổ ===
Khai thác mỏ trong [[trung Cổ|thời kỳ Trung Cổ]] được biết đến nhiều nhất từ công trình [[De Re Metallica]] (1556) của [[Georg Agricola]], ông đã miêu tả một số phương pháp khai thác mỏ khác nhau, sau này được sử dụng trong các mỏ ở Đức và Saxon. Sử dụng năng lượng nước một dạng của [[cối xay nước]] được cải tiến; họ tạo ra quặng được nghiền nhỏ, đưa quặng lên từ hầm mỏ và thông gió trong mỏ bằng các [[ống thổi]] công suất lớn. [[Thuốc súng|Bột màu đen]] được sử dụng đầu tiên trong khai thác mỏ ở [[Banská Štiavnica|Selmecbánya]], [[Vương quốc Hungary]] (ngày nay là [[Banská Štiavnica]],[[Slovakia]]) vào năm 1627.<ref>Heiss, A.G. & Oeggl, K. (2008). Analysis of the fuel wood used in Late Bronze Age and Early Iron Age copper mining sites of the Schwaz and Brixlegg area (Tyrol, Austria). ''Vegetation History and Archaeobotany'' 17(2):211-221, Springer Berlin / Heidelberg, [http://dx.doi.org/10.1007/s00334-007-0096-8].</ref> Phương pháp dùng chất nổ này làm các khối đất đá vỡ ra và thu hồi mạch quặng nhanh hơn phương pháp đốt nêu trên. Năm 1762, học viện khai thác mỏ đầu tiên trên thế giới được thành lập trong thành phố này.
 
=== Nam Mỹ và Bắc Mỹ ===
[[Tập tin:TamarackMiners CopperCountryMI sepia.jpg|nhỏ|245px|Thở mỏ ở [[mỏ Tamarack]], [[Copper Country]], Michigan, Hoa Kỳ năm 1905.]]
Ở [[Bắc Mỹ]] đã có những mỏ [[đồng]] được khai thác vào thời tiền sử và thời cổ đại dọc theo [[hồ Thượng|hồ Superior]].<ref name="Lankton91">Lankton, L. (1991). ''Cradle to Grave: Life, Work, and Death at the Lake Superior Copper Mines''. New York: nhà in Đại học Oxford, tr. 5-6.</ref><ref name="west70">West, G.A. (1970). ''Copper: its mining and use by the aborigines of the Lake Superior region''. Westport, Conn: Greenwood Press.</ref> "Những người da đỏ bản địa đã mang lại nhiều lợi ích cho họ từ việc khai thác đồng ở đây ít nhất cách đây 5000,"<ref name="Lankton91"/> và những công cụ bằng đồng, đầu mũi tên, và các dụng cụ mang tính văn hóa khác là một phần trong mạng lưới giao thương bản địa đã được khám phá. Thêm vào đó, [[đá vỏ chai]], [[đá lửa (lịch sử)|đá lửa]], và các khoáng sản khác được khai thác, chế biến và trao đổi.<ref name="west70"/> Trong khi các nhà thám hiểm người Pháp trước đây bắt gặp các mỏ này không sử dụng các kim loại bởi vì khó khăn trong việc vận chuyển,<ref name="west70"/> đồng được buôn bán trên toàn lục địa dọc theo các tuyến đường thủy chính. Ở [[Manitoba]], Canada, cũng có các mỏ thạch anh cổ đại gần hồ Waddy và các vùng xung quanh.<ref>Bruno L. & Heaman L. M. (2004). Structural controls on hypozonal oroganic gold mineralization in the La Rouge Domain, Trans-Hudson Orogen, Saskatchewan. ''The Canadian Journal of Earth Sciences'', quyển 41, số 12, tr. 1453-1471.</ref>
 
Trong lịch sử thuộc địa của châu Mỹ trước đây, "vàng và bạc tự nhiên được khai thác một cách nhanh chóng và chuyển chúng đến Tây Ban Nha trên các thuyền buồm chất đầy vàng và bạc"<ref>Vaden, H.E. & Prevost. G. (2002). ''Politics of Latin America: The Power Game''. New York: nhà in Đại học Oxford, tr. 34.</ref> hầu hết từ các mỏ ở Trung và Nam Mỹ. [[Ngọc lam]] được định tuổi khoảng năm 700 được khai thác vào thời châu Mỹ [[tiền Columbus]]; trong khu vực mỏ Cerillos ở [[New Mexico]], ước tính "khoảng 15.000 tấn đá đã bị bóc ra khỏi núi Chalchihuitl sử dụng [[công cụ bằng đá]] trước năm 1700."<ref>Maynard, S.R., Lisenbee, A.L. & Rogers, J. (2002). Preliminary Geologic Map of the Picture Rock 7.5 - Minute Quadrangle Sante Fe County, Central New Mexico. New Mexico Bureau of Geology and Mineral Resources, Open-File Report DM-49.</ref><ref>The Cerrillos Hills Park Coalition, (2000). Cerrillos Hills Historic Park Vision Statement. Public documents: Author. Khôi phục ngày 27 tháng 8 năm 2007, [http://www.cerrilloshills.org/Coalition/document.html].</ref>
 
Khi thác mỏ ở [[Hoa Kỳ]] trở nên thịnh hành vào thế kỷ 19. Với [[cơn sốt vàng California]] vào giữa thập niên 1800, khai thác mỏ khoáng sản và kim loại quý cùng với [[trang trại|nông trại]], là một yếu tố tác động vào [[sự mở rộng về phía Tây]] đến bờ biển Thái Bình Dương. Với sự khảo sát về phía tây, các trại khai thác mỏ được dựng lên và "thể hiện một tinh thần đặc biệt, một gia sản lâu dài cho đất nước mới;" những người sốt vàng có thể gặp những vấn đề tương tự như những người sốt đất diễn ra trong thời gian ngắn ở miền Tây trước đó.<ref>Boorstin, D.J. (1965). ''The Americans: The National Experience''. New York: Vintage Books, tr. 78-81.</ref> bằng đường sắt, một số người đến miền Tây để tìm kiếm cơ hội làm việc trong ngành khai thác mỏ. Các thành phố miền Tây như [[Denver, Colorado|Denver]] và [[Sacramento, California|Sacramento]] trước đây là các thành phố khai thác mỏ.
 
== Các phương pháp và công đoạn khai thác mỏ ==
Dòng 53:
=== Mỏ sau khai thác ===
== Kỷ lục ==
Đến năm 2008, mỏ sâu nhất trên thế giới là [[TauTona]] ở [[Carletonville]], [[Cộng hòa Nam Phi|Nam Phi]] đạt đến độ sâu 3,9&nbsp;km,<ref name="TauTonaExtended">{{chú thích báo |title=TauTona, Anglo Gold - Mining Technology |url=http://www.mining-technology.com/projects/tautona_goldmine/ |publisher=SPG Media Group PLC |date=2009-01-01 |accessdate=2009-03-02 }}</ref> kỉ lục trước đó là mỏ lân cận [[Mỏ Savuka|Savuka]] ở [[North West Province (South Africa)|North West Province]] của Nam Phi đạt đến độ sâu 3.774 m.<ref name="TauTonaPlans">{{chú thích báo |first=Brindaveni |last=Naidoo |title=TauTona to take 'deepest mine' accolade |url=http://www.miningweekly.co.za/article.php?a_id=98516 |publisher=Creamer Media's Mining Weekly Online |date=2006-12-15 |accessdate=2007-07-19 |archiveurl = http://web.archive.org/web/20070819232301/http://www.miningweekly.co.za/article.php?a_id=98516 <!-- Bot retrieved archive --> |archivedate = 2007-08-19}}</ref> [[Mỏ East Rand]] ở [[Boksburg]], Nam Phi từng lập kỷ lục ở độ sâu 3.585 m. Mỏ sâu nhất ở châu Âu là các mỏ khai thác urani thứ 16 ở [[Příbram]], [[Séc]] ở độ sâu 1.838 m,<ref name="DeepestEurope">{{chú thích báo |title=Mineral deposits: from their origin to their environmental impacts |url=http://books.google.cz/books?id=o-WkCSk4jbkC&lpg=PA400&ots=mju4Fz3wlJ&dq=uranium%20mines%20in%20P%C5%99%C3%ADbram%201838&hl=cs&pg=PA400#v=onepage&q=uranium%20mines%20in%20P%C5%99%C3%ADbram%201838&f=false |publisher= Taylor & Francis}}</ref> thứ nhì là [[Bergwerk Saar]] ở [[Saarland]], [[Đức]] sâu 1.750 m.
 
== Xem thêm ==
Dòng 64:
* Ali, Saleem H. (2009) ''Treasures of the Earth: need, greed and a sustainable future''. New Haven and London: Yale University Press
* {{chú thích sách |title=From Mine to Mistress: Corporate Strategies and Government Policies in the International Diamond Industry |last=Even-Zohar |first=Chaim |year=2002 |publisher=Mining Journal Books |isbn=0-9537336-1-0 |page=555}}
* Geobacter Project: [http://www.geobacter.org/press/2001-07-21-economist.pdf Gold mines may owe their origins to bacteria] (in [[Portable Document Format|PDF]] format)
* Garrett, Dennis ''Alaska Placer Mining''
* {{chú thích sách |title=Principles of Mine Planning|edition=2nd |last=Jayanta |first=Bhattacharya |year=2007 |publisher=Wide Publishing |location= |isbn=81-7764-480-7 |page=505}}