Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Khalip”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
MerlIwBot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Thêm kk:Халифа
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
'''Khalip''' (tiếng Ả Rập {{Audio|Ar-khalifa.ogg|خليفة '''Khalīfah'''}}, tiếng Anh: '''caliph''', tiếng Pháp: '''calife''') là vị chức sắc cao nhất đối với tín đồ [[Hồi giáo]] trên thế giới. Trong nhiều thế kỷ, chức '''khalip''' cũng giữ vai trò hoàng đế chung của tất cả các nước mà Hồi giáo là quốc đạo.
 
Về mặt tôn giáo, so với chức [[giáo hoàng]] của [[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo Rôma]] thì chức '''khalip''' có ít quyền hơn, chẳng hạn như không có quyền phong thánh. '''Khalip''' cũng không được phép sửa đổi giáo điều hay giáo luật nên gọi là « giáo chủ » cũng không được thích hợp lắm.
 
Giới học giả [[Việt Nam]] vốn chưa quan tâm nhiều đến lịch sử các quốc gia Hồi giáo, mà các tự điển thường thức Âu Mỹ cũng không định nghĩa rõ ràng hoặc đúng lắm, nên trong các tự điển Anh-Việt, Pháp-Việt, danh từ caliph/calife thường được dịch là « quốc vương », « vua » hoặc đôi khi là « hoàng đế » kèm thêm « ở 'một' nước Hồi giáo » hay « ở 'các' » nước Hồi giáo”. Trong các tình huống thông thường, cách dịch này thỏa mãn nhu cầu của người dùng tự điển.
Dòng 37:
=== Những vị khalip chính thống (632 - 661) ===
Bốn vị khalip đầu tiên được coi là « chính thống » vì được đa số chi phái công nhận. Danh từ « chính thống » dịch từ chữ 'orthodox' thường dùng trong tiếng Anh hoặc Pháp. Trong tiếng Ả Rập họ được gọi là « Rashidun »<ref>Danh từ « Rashidun » nay cũng thường thấy trong nhiều tài liệu tiếng Anh.</ref> (« được dẫn dắt đúng đắn ») vì được tin là những người tuân theo đúng kinh Koran, và làm đúng theo đường lối cư xử ('sunnah') của nhà tiên tri Muhammad của đạo Hồi. Bốn vị khalip ấy là:
* [[Abu Bakar]], cũng viết là Abu Bakr (632 - 634). Dưới thời của ông, phần lớn bán đảo Ả Rập nổi dậy tấn công [[thủ đô]] Medina, gọi là cuộc « chiến tranh Ridda ». Các thế lực này bị đánh bại, nhưng chiến tranh lan sang [[Đế quốc Ba Tư|Ba Tư]] và Đông La Mã ([[Đế quốc Đông La Mã|Byzantine]]).
* [[Omar bin Khattab]], cũng viết là Umar ibn al-Khattab (634 - 644). Ông quy định tổ chức các giáo hạt và khiến ghi chép thêm giáo luật Sharia. Thời này, quốc gia Hồi giáo thắng Ba Tư và Đông La Mã, chiếm được các vùng lãnh thổ tương đương với Iraq, Iran, Syria, Jordan, Palestine, Ai Cập, Libya ngày nay.
* [[Othman bin Affan]], cũng viết là Uthman ibn Affan (644 - 656). Khalip Othman tổ chức công cuộc kết tập kinh Koran. Thời ông, quốc gia Hồi giáo sáp nhập toàn bộ đế quốc Ba Tư, mở rộng đến Uzbekistan, Kazakhstan, Turkmenistan ngày nay.
Dòng 52:
 
*[[Mu'Awiya I]] (661-680), vị khalip thứ nhất của nhà Omeyyad, đã bỏ tuyển cử và chọn con trai là [[Yazid I]] làm người thừa kế.
* [[Abd al-Malik|Abd al-Malik ibn Marwan]] (685 - 705), vị khalip thứ năm của nhà Omeyyad, đã cho dịch sang tiếng Ả Rập nhiều tác phẩm giá trị, lập một hệ thống tiền tệ mới, chiến tranh với Đông La Mã, và cho xây thánh đường '[[Masjid Qubbat As-Sakhrah]]' ở [[Jerusalem]].
* [[Omar bin Abd al-Aziz]] (717 - 720), cũng gọi là Umar II, là một vị khalip rất ngoan đạo, và được một số người của hệ phái Sunni coi là vị khalip chính thống thứ năm.
 
Nhà Omeyyad đóng đô ở [[DamascusDamas]]cus, nay là thủ đô [[Syria]].
Từ thời [[nhà Omeyyad]] trở đi, do sự truyền ngôi theo phụ hệ, nhiều '''khalip''' chỉ là những ông vua thừa hưởng ngôi báu của cha ông, mà không có tác phong của một nhà lãnh đạo tinh thần. Chức '''khalip''' tuy có người xưng, và thường có tranh chấp, nhưng nhiệm vụ lãnh đạo giáo dân thì thực sự ít khi có ai làm.
 
Dòng 61:
[[Tập tin:Abbasids Dynasty 750 - 1258 (AD).PNG|nhỏ|phải|200px|Bản đồ đế quốc [[nhà Abbas]] vào lúc rộng lớn nhất]]
[[Nhà Abbas]] nổi lên, đánh bại và thay thế nhà Omeyyad. Thời này đế quốc Ả Rập được một thời hoàng kim của thanh bình, thịnh trị và văn minh vào đời các '''khalip''' [[Al-Mansur]], [[Harun Al-Rashid]] và [[Al-Mamun]].
* Khalip [[Al-Mansur]] (754-775) cho xây thành phố [[Bagdad]] quy mô lên rồi dời đô về đấy năm 762. Bagdad trở thành thủ đô của các vị khalip trong một thời kỳ lâu dài nhất, gần 500 năm (762 - 1258), với những năm tháng huy hoàng rực rỡ nhất. Và do đó, nói đến các khalip thì người ta nói đến Bagdad, cũng như nói đến các giáo hoàng thì người ta nói đến [[Đế quốc La Mã|La Mã]].
* Khalip [[Harun Al-Rashid]] (786-809) là vị ''khalip''' được đại chúng trên thế giới biết đến nhiều nhất qua nhiều truyện cổ tích trong « [[Nghìn lẻ một đêm]] ». Trong các truyện này, ông hay giả dạng thường dân đi xem xét dân tình.
* Khalip [[Al-Mamun]] (813-833) muốn kéo lại gần nhau hai hệ phái chính của đạo Hồi là hệ Sunni (của dòng họ ông) và hệ Shia, nên ông đã lập di chúc truyền ngôi cho lãnh tụ hệ Shia là Ali Reza. Nếu việc này xảy ra êm đẹp thì nhà Abbas đã chấm dứt lúc đó. Nhưng ông Ali Reza mất sớm, trong lúc khalip Al-Mamun còn trị vì, nên việc thừa kế đó đã không thành.
Dòng 69:
Khoảng năm 1055, một thủ lĩnh người Thổ Nhĩ Kỳ là [[Toghrul Bey]] <ref>Cũng viết là Tugril Bek, T.ughrul Beg, và nhiều chữ đồng âm tương tự.</ref> chinh phục được nhiều nước ở Trung Á, Afghanistan, Pakistan và Iran. Nhà Abbas đón ông vào Bagdad, diệt nhà Buya, và phong ông chức 'Sultan'. Từ đó chức 'sultan' giữ vai trò trên phò khalip, dưới thống lĩnh chư hầu. Tại Bagdad, các 'sultan' cũng kế tục các 'đại êmia' trong thói quen áp chế khalip.
 
Từ năm 1096, những lớp [[Thập tự chinh|Thập Tự Quân]] từ Âu Châu sang chiếm nhiều vùng đất ở Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Lebanon và Palestine, và từ đó mở những cuộc tấn công vào Iraq và Ai Cập. Đến thập niên 1170, [[Ṣalāḥ ad-Dīn|Saladin]] thống nhất được Ai Cập, Palestine và Nam Syria và quy tụ được các chư hầu chống với Thập Tự Quân. Ông được khalip nhà Abbas phong chức 'sultan'. Đến thập niên 1190, vua xứ [[Delhi]] miền bắc Ấn Độ cũng lấy chức 'sultan'.
 
Năm 1258, quân [[Mông Cổ]], do [[Húc Liệt Ngột]] (Hulagu) thống lĩnh, vào chiếm Baghdad và chấm dứt nhà Abbas.
Dòng 89:
Từ khoảng năm 1780, nhà Ottoman đã yếu so với các đế quốc Âu Châu, nhưng lại là thế lực độc lập mạnh nhất của người Hồi giáo. Chức khalip của [[Abdul Hamid II]] được tín đồ Hồi giáo tại Ai Cập, Ấn Độ và Trung Á công nhận.
 
Năm 1922, đế quốc Ottoman bị truất phế, nước [[Thổ Nhĩ Kỳ|Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ]] ra đời. Ngày 3 tháng 3 năm 1924, tại Đại Hội Quốc Gia ('Turkish Grand National Assembly'), theo lệnh của tổng thống [[Mustafa Kemal Atatürk]], chức khalip bị tuyên bố bãi bỏ.
 
=== Sau 1924 ===
* [[Abdulmecid II|Abdülmecid II]] là vị khalip cuối cùng của Vương triều Ottoman, được coi là vị khalip thứ 101 kể từ khalip Abu Bakar. Vào ngày [[23 tháng 8]] năm 1944, ông qua đời tại tư gia ở Boulevard Suchet, Paris XVIe, [[Pháp]] (hai ngày trước khi quân [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] kéo tới [[Giải phóng Paris|khôi phục Paris]] trong tay quân [[Đức Quốc Xã]]). Ông được an táng tại Medina, Ả Rập Saudi.
 
Từ 1924 đến nay, một số đoàn thể và cá nhân tín hữu Hồi giáo vẫn kêu gọi sự tái lập chức vị khalip.<ref>Jay Tolson, “Caliph Wanted: Why An Old Islamic Institution Resonates With Many Muslims Today,” ''U.S News & World Report'' 144.1 (14 tháng 1, 2008): 38-40.</ref>
Dòng 100:
 
=== Nhà Fatima (909 - 1171) ===
Năm 909, thủ lĩnh [[Said ibn Husayn]] nổi lên ở Bắc Phi, xưng là khalip và là hậu duệ của nhà tiên tri [[Muhammad]] của đạo Hồi qua người con gái út tên là [[Fátima|Fatima]]. Triều đại của ông lập ra do đó mang tên là [[nhà Fatima]]. Vài mươi năm sau, lãnh thổ nhà Fatima bao gồm Maroc, Algeria, Tunisia, Libya, Ai Cập, Palestine, Syria và miền tây của bán đảo Ả Rập, trong đó có hai thánh địa chính của Hồi giáo là Mecca và Medina. Sau đó, nhà Abbas chiếm lại được các đất ở châu Á, nhưng nhà Fatima vẫn giữ được Ai Cập và Bắc Phi.
 
Nhà Fatima ít được công nhận vì họ chống với nhà Abbas, một triều đại đã lập lên từ hơn một thế kỷ trước và đã được lòng dân. Lý do quan trọng khác là họ thuộc phái Ismail, một chi nhánh ít tín đồ trong hệ phái Shia, mà hệ Shia cũng chỉ chiếm khoảng 8% trên tổng số tín đồ Hồi giáo.