Anhydride là một khoáng vật sulfat calci khan, CaSO4. Nó kết tinh theo trực thoi, với ba mặt cát khai hoàn hảo song song với ba mặt phẳng hình học. Nó không đồng hình với bari sulfat (barit) trực thoi và stronti sulfat (calestin), điều mà có thể được dự đoán từ công thức hóa học. Khối tinh thể riêng biệt rất hiếm, thường thì khoáng vật này chỉ tồn tại ở dạng các khối cắt. Độ cứng là 3,5 và trọng lượng riêng là 2,9. Màu sắc trắng, đôi khi hơi xám, hơi xanh hoặc tím. Ở mặt cát khai, ánh ngọc trai, các mặt khác có ánh thủy tinh. Khi tiếp xúc với nước, anhydride chuyển thành dạng thạch cao, (CaSO4·2H2O), bởi quá trình hấp thụ nước. Anhydride thường có mặt với calcit, halit, và lưu huỳnh cũng như là galen, chalcopyrit, molybdenitpyrit trong các mỏ khoáng.

Anhydride
Anhydridee, Chihuahua, Mexico
Thông tin chung
Thể loạiKhoáng vật sulfat
Công thức hóa họcCalci sunfat:CaSO4
Phân loại Strunz07.AD.30
Phân loại Dana28.3.2.1
Hệ tinh thểTrực thoi - Tháp đôi
Nhóm không gianTrực thoi 2/m 2/m 2/m
Ô đơn vịa = 6.245(1) Å, b = 6.995(2) Å, c = 6.993(2) Å; Z = 4
Nhận dạng
MàuKhông màu đến xanh nhạt hoặc tím nếu trong suốt; đỏ, nâu mờ hoặc xám nếu chứa tạp chất
Dạng thường tinh thểHiếm gặp tinh thể ở dạng tấm và lăng trụ. Thường tồn tại ở dạng mạch sợi song song, tan vỡ thành các mảnh cát khai. Cũng có thể tồn tại ở dạng các khối hạt, kết hạch, đá khối.
Song tinhĐơn giản hoặc lặp lại ở mặt {011}, phổ biến; liên kết đôi ít gặp ở mặt {120}
Cát khai[010] hoàn hảo, [100] hoàn hảo, [001] tốt;
Vết vỡDạng vỏ sò
Độ bềnGiòn
Độ cứng Mohs3.5
ÁnhÁnh ngọc trai ở mặt {010}, ánh thủy tinh đến ánh mờ ở mặt {001}; ánh thủy tinh ở mặt {100}
Màu vết vạchTrắng
Tính trong mờMờ đến trong suốt
Tỷ trọng riêng2.97
Thuộc tính quangHai trục (+)
Chiết suấtnα = 1.567 - 1.574 nβ = 1.574 - 1.579 nγ = 1.609 - 1.618
Khúc xạ képδ = 0.042 - 0.044
Đa sắcĐa dạng dưới tia cực tím; X = không màu cho đến màu hồng hoặc vàng nhạt; Y = tím nhạt hoặc hồng; Z = tím.
Góc 2V56 - 84°
Tính nóng chảy2
Các đặc điểm khácMột số mẫu vật phát huỳnh quang, một số khác phát huỳnh quang sau khi đun nóng
Tham chiếu[1][2][3][4]
Cấu trúc tinh thể của anhydride

Thể tồn tại

sửa

Anhydride thường được tìm thấy cùng với thạch cao trong các mỏ đã bốc hơi nước. Nó được phát hiện lần đầu năm 1794 ở một mỏ muối gần Hall ở Tirol. Ở độ sâu này, bề mặt anhydride đã bị chuyển thành thạch cao bởi sự hấp thụ từ nước ngầm.

Trong dung dịch calci sulfat, các tinh thể thạch cao tồn tại, nhưng khi dung dịch chứa dư natri hoặc kali clorit, anhydride sẽ được tạo thành khi trên 40 °C. Đây là một trong những cách để thu được khoáng vật nhân tạo, và tương tự như sự hình thành trong tự nhiên, khi mà khoáng vật tồn tại ở các bể muối.

Kết hạch ở bãi thoái triều

sửa

Anhydride tồn tại trong môi trường bãi thoái triều ở vùng Vịnh qua quá trình thay thế kết hạch tạo đá. Anhydride kết hạch xuất tồn tại như phần thay thế cho thạch cao trong môi trường đá trầm tích.[5]

Đá phủ vòm muối

sửa

Lượng lớn anhydride tồn tại khi các vòm muối tạo thành đá khối. Anhydride tồn tại 1-3% trong các vòm muối và hình thành các lớp phủ ở trên đỉnh muối khi halit bị nước lỗ hổng rửa trôi. Đá phủ điển hình là muối, trên cùng phủ bởi một lớp anhydride, đắp trên nữa là thạch cao, tiếp theo là một lớp calcit.[6] Sự tiếp xúc với dầu có thể làm giảm SO4 tạo thành calcit, nước và hydro sulfide(H2S).[7]

Tên gọi

sửa

Tên gọi Anhydride được đặt bởi A. G. Werner vào năm 1804, bởi vì sự thiếu nước trong tinh thể, tương phản với sự có mặt của nước trong thạch cao.

Tham khảo

sửa
  1. ^ Klein, Cornelis and Cornelius S. Hurlbut, 1985, Manual of Mineralogy, 20th ed., John Wiley and Sons, New York, ISBN 0-471-80580-7
  2. ^ Webmineral
  3. ^ Mindat.org
  4. ^ Handbook of Mineralogy
  5. ^ Michael A. Church, Encyclopedia of Sediments & Sedimentary Rocks, Springer, 2003, pp. 17-18 ISBN 978-1-4020-0872-6
  6. ^ Walker, C. W. (1976). “Origin of Gulf Coast salt-dome cap rock”. AAPG Bulletin. 60 (12): 2162–2166.
  7. ^ Saunders, James A.; Thomas, Robert C. (1996). “Origin of 'exotic' minerals in Mississippi salt dome cap rocks: results of reaction-path modeling”. Applied Geochemistry. 11 (5): 667–676. doi:10.1016/S0883-2927(96)00032-7.