Bát kỳ

(Đổi hướng từ Bát Kỳ)

Bát kỳ hay Bát kỳ Mãn Châu (tiếng Mãn: ᠵᠠᡴᡡᠨ
ᡤᡡᠰᠠ
, Möllendorff: jakūn gūsa, Abkai: jakvn gvsa, hình ảnh chữ Mãn: jakūn gūsa, chữ Hán: 八旗, bính âm: bāqí) là một chế độ tổ chức quân sự đặc trưng của người Mãn Châunhà Thanh (sau này), đặc trưng của Bát kỳ là mỗi đơn vị được phân biệt bằng một lá cờ khác nhau, tổng cộng có tám lá cờ cơ bản theo đó mọi người dân Mãn Châu đều thuộc một trong tám "Kỳ", đứng đầu là một kỳ chủ và tư lệnh tối cao là Đại Hãn, đó vừa là các đơn vị dân sự vừa mang tính chất quân sự. Bát kỳ ban đầu là danh xưng dùng để chỉ về Bát kỳ Mãn Châu hay Mãn Kỳ sau đó được phát triển thêm Mông Cổ Bát kỳ và Hán Tộc Bát kỳ vì vậy gọi chung là Bát kỳ (không phân biệt).

Bát Kỳ
八旗
Thanh kỳ thời vua Càn Long
Hoạt động1615 - 1938[1][2][3][4]
Quốc giaNhà Thanh, Mãn Châu
Phục vụHậu Kim - Nhà Thanh
Phân loạiBộ binh, Kỵ binh, Pháo binh, Hải quân
Bộ chỉ huyBắc Kinh, Mãn Châu, Tây An, Nam Kinh, Hàng Châu, Thành Đô, Phúc Châu, Thanh Châu, Khai Phong
Màu sắcVàng, Đỏ, Trắng, Xanh dương
Tham chiếnChiến tranh Minh-Thanh, trận Sơn Hải quan, Cuộc xâm lược Triều Tiên lần thứ hai của Mãn Châu, Loạn Tam Phiên, Thập toàn Võ công, Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất, lần thứ hai, Cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc, Nghĩa Hòa Đoàn, Cách mạng Tân Hợi
Các tư lệnh
Chỉ huy
nổi tiếng
Eight Banners
Tên tiếng Trung
Tiếng Trung八旗
Tên tiếng Mãn
Bảng chữ cái tiếng Mãn ᠵᠠᡴᡡᠨ ᡤᡡᠰᠠ
Chuyển tựjakūn gūsa

Đây là một tổ chức quân sự đặc sắc của người Mãn Châu và cũng là đội quân hùng mạnh trong lịch sử Trung Hoa, đã đóng góp công lao to lớn trong cuộc chinh chiến giữa nhà Thanhnhà Minh. Chế độ Bát kỳ do Nỗ Nhĩ Cáp Xích sáng lập và được hoàn thiện dưới thời kỳ trị vì của Hoàng Thái Cực. Tuy nhiên, sau một thời gian hòa bình kéo dài và quá trình Hán hóa, đến thời Ung Chính (1722 - 1735) và Càn Long (1735 - 1795) thì năng lực tác chiến của quân Bát kỳ ngày càng suy thoái, đến thời kỳ Hàm Phong (1850 - 1861) thì Bát kỳ gần như đã trở nên vô dụng và cuối cùng đã tan rã khi nhà Thanh sụp đổ năm 1912.

Hình thànhSửa đổi

 
Nỗ Nhĩ Cáp Xích, người đã sáng tạo ra chế độ Bát kỳ

Vào thời đầu, của người Mãn Châu, hệ thống quân sự Kỳ Binh sinh hoạt trên căn bản hiện hữu từ xưa là Binh Nông Hợp Nhất, tức kết hợp giữa nông dân và binh lính, mỗi nông dân phải phục vụ cho quân đội trong một thời gian đã được quy định trước.

Trước đó nhà Minh khi còn ảnh hưởng đến khu vực Mãn Châu đã áp dụng mô hình quản lý các đơn vị hành chính ngoại biên (các bộ lạc) để dễ kiểm soát, theo đó trên cứ 10 người thì được xem là một đơn vị cơ sở, gọi là "Tập", và 10 "Tập" hợp lại thành một đơn vị gọi là "Trại" (gồm 100 người). Lúc này, số lượng người của bộ lạc còn ít thì chính quyền Minh chỉ quản lý các bộ lạc Nữ Chân theo hình thức là "Tập" và "Trại".

Hình thức này được các thủ lĩnh Mãn Châu áp dụng và tồn tại đến thời của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, các bộ lạc nhanh chóng phát triển thông qua các cuộc chiến tranh chinh phục hoặc hôn nhân mang tính chính trị (lãnh thổ và dân số của các bộ lạc có sự biến đổi do sáp nhập, hợp nhất hoặc thông qua các liên minh). Hình thức "Tập" và Trại" không còn phù hợp với sự phát triển của các bộ lạc, vì thế, các cứ và cách thức tổ chức của nhà Minh và bản địa hóa, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã xây dựng hình thức tổ chức xã hội bộ lạc mới là Kỳ (Gūsa) và chế độ Bát kỳ.

Thời Nỗ Nhĩ Cáp XíchSửa đổi

Năm Minh Vạn Lịch thứ 12 (1584), Nỗ Nhĩ Cáp Xích khởi binh, lấy "Hắc kỳ" làm cờ hiệu.

Năm thứ 17 (1589), thống nhất Kiến Châu tam vệ, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thiết lập "Hồng kỳ" (Fulgiyan), đích thân thống lĩnh. Giao Hắc kỳ cho bào đệ Thư Nhĩ Cáp Tề.

Khoảng năm 1601, Nỗ Nhĩ Cáp Xích tiến hành một cuộc cải tạo quy mô lớn đối với Ngưu lục, phỏng theo chế độ "Mãnh an mưu khắc" (chữ Hán: 猛安谋克, Văn tự Nữ Chân:    /miŋgan moumukə/)[5] của người Nữ Chân, quy định ra Biên chế cơ bản, sau đó lại đặt ra 4 Kỳ phân biệt theo màu cờ hiệu là Hoàng (Suwayan), Bạch (Sanggiyan), Hồng (Fulgiyan), Lam (Lamun). Hoàng kỳ đặt dưới quyền khống chế và điều động của ông. Lam kỳ giao cho người em Thư Nhĩ Cáp Tề (Surhaci). Bạch kỳ được giao cho con trai trưởng là Chử Anh và Hồng kỳ do người con trai thứ là Đại Thiện quản lý.

Người đứng đầu mỗi Kỳ gọi là "Kỳ chủ". Mỗi Kỳ Chủ phải trực tiếp nghe theo mệnh lệnh của Đại Hãn, quyền lực và địa vị chỉ thấp hơn Đại Hãn mà cao hơn tất cả mọi người. Các bộ lạc thành viên trong tất cả các Kỳ không nắm giữ tất cả một vùng, hay không chiến đấu thành đơn vị hợp nhất. Khi yêu cầu một cuộc hành quân, thì được thiết lập dưới các kỳ khác nhau. Những sự phân chia này chủ yếu hạn chế nguy cơ các bộ lạc ly khai hay không tuân lệnh.[6]

Về sau, khi thống nhất hoàn toàn các bộ lạc Nữ Chân, Nỗ Nhĩ Cáp Xích tổ chức tăng thêm bốn kỳ nữa. Các kỳ cũ được thêm danh xưng Chính (Gulu, không có viền), còn các kỳ mới có thêm màu viền trên cờ hiệu là có thêm danh xưng Tương (Kubuhe, có viền), gọi là Tương Hoàng kỳ, Tương Lam kỳ, Tương Bạch kỳ, Tương Hồng kỳ, chính thức hình thành nên Bát kỳ[7]. Cờ xí của Chính Tứ kỳ là hình vuông thuần sắc, đầu rồng hướng về sau; cờ xí của Tương Tứ kỳ là hình ngũ giác, có thêm viền đỏ hoặc viền trắng, đầu rồng hướng về phía trước.

Năm 1607, vì có xảy ra bất hòa, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thu binh quyền của Thư Nhĩ Cáp Tề, về sau giao lại Tương Lam kỳ lại cho con thứ của Thư Nhĩ Cáp Tề là A Mẫn, Chính Lam kỳ được giao cho con trai thứ 5 của Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Mãng Cổ Nhĩ Thái.

Năm 1615, Chử Anh, con trai trưởng và là người thừa kế của ông bị dèm pha nên đã bị ông bắt giam và bức tử. Nỗ Nhĩ Cáp Xích giao lại Tương Bạch kỳ cho trưởng tôn Đỗ Độ - con trai trưởng của Chử AnhChính Bạch kỳ giao lại cho người con trai thứ 8 là Hoàng Thái Cực.

Vì Bát kỳ vốn do con cháu của Nỗ Nhĩ Cáp Xích nắm giữ, vì vậy sắp xếp các Kỳ cũng thường theo thứ tự "trưởng - ấu", tuy nhiên vì luân phiên thay đổi quyền lực thời Thanh sơ nên trên thực tế cũng có vài lần thay đổi chính. Trong những ghi chép còn lại hiện nay, ghi chép về sắp xếp sớm nhất là vào năm Thiên Mệnh thứ 7 (1622): Chính Hoàng kỳ - Tương Hoàng kỳ - Chính Hồng kỳ - Tương Hồng kỳ - Tương Lam kỳ - Chính Lam kỳ - Chính Bạch kỳ - Tương Bạch kỳ. Lúc đó, bản thân Nỗ Nhĩ Cáp Xích chưởng quản Lưỡng Hoàng kỳ, Đại Bối lặc Đại Thiện chưởng quản Lưỡng Hồng kỳ, Nhị Bối lặc A Mẫn chưởng quản Tương Lam kỳ, Tam Bối lặc Mãng Cổ Nhĩ Thái chưởng quản Chính Lam kỳ, Tứ Bối lặc Hoàng Thái Cực chưởng quản Chính Bạch kỳ và trưởng tôn của Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Đỗ Độ chưởng quản Tương Bạch kỳ. Vì vậy, sắp xếp thứ tự Bát kỳ như vậy có liên quan đến thứ tự "trưởng - ấu" của người nắm giữ nó[8].

Cuối những năm Thiên Mệnh, Nỗ Nhĩ Cáp Xích giao Chính Hoàng kỳ cho A Tế CáchĐa Nhĩ Cổn. A Tế Cách trở thành Đại kỳ chủ của Chính Hoàng kỳ và Đa Nhĩ Cổn là Tiểu kỳ chủ. Nỗ Nhĩ Cáp Xích lại chia một nửa Tá lĩnh Tương Hoàng kỳ cho đích ấu tử là Đa Đạc. Căn cứ vào chế độ con út kế thừa trước khi nhập quan, sau khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích qua đời, Đa Đạc được nhận hoàn chỉnh 30 Tá lĩnh của Tương Hoàng kỳ, trở thành Đại Kỳ chủ thống lĩnh toàn bộ Tương Hoàng kỳ. Lại bởi vì xích mích không thể hòa giải giữa Đại Thiện và 2 con trai Nhạc Thác Thạc Thác, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã đem Tương Hồng kỳ giao cho Nhạc Thác.

Lúc này, thứ tự của Chính Hoàng kỳ và Tương Hoàng kỳ hoán đổi cho nhau, Tương Hoàng kỳ trở thành Kỳ đứng đầu của Bát kỳ.

Thời Hoàng Thái CựcSửa đổi

 
Cuộc đi săn của các Bối lặc

Sau khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích qua đời, cuộc tranh chấp ngôi vị Đại Hãn nổ ra quyết liệt giữa các vị Hòa thạc Bối lặc. Cuối cùng, dưới sự thỏa hiệp của các Hòa Thạc Bối lặc, Hoàng Thái Cực lên ngôi Đại Hãn.

Hoàng Thái Cực về danh nghĩa là Đại Hãn (Khan) là thống soái tối cao của Bát kỳ nhưng trên thực tế cũng chỉ đứng đầu và ra lệnh cho 1 kỳ của ông chỉ huy. Tình hình đó làm cho quân Mãn Châu suy yếu và đòi hỏi nhu cầu tập quyền đặc biệt là tập quyền về quân sự (trong đó cốt lõi là giành quyền kiểm soát các kỳ) là yêu cầu được đặt tra bức thiết để đáp ứng yêu cầu phát triển của Mãn Châu lúc bấy giờ.

Vì vậy sau khi lên ngôi, Hoàng Thái Cực lấy lý do Lưỡng Hoàng kỳ vốn thuộc Đại Hãn, đã đem đổi Lưỡng Hoàng kỳ và Lưỡng Bạch kỳ, Đa Đạc trở thành Kỳ chủ của Chính Bạch kỳ, A Tế Cách và Đa Nhĩ Cổn chia nhau Tương Bạch kỳ[9]. Về sau, Hoàng Thái Cực lần lượt hạ bệ A MẫnMãng Cổ Nhĩ Thái, địa vị của Lưỡng Lam kỳ cũng theo đó mà giảm xuống, cũng từ đó mà hình thành nên thứ tự Lưỡng Hoàng kỳ - Lưỡng Hồng kỳ - Lưỡng Bạch kỳ - Lưỡng Lam kỳ[10].

Năm Thiên Thông thứ 4 (1630), A Mẫn bị hoạch tội cách tước, Tương Lam kỳ được giao cho Tế Nhĩ Cáp Lãng. Không lâu sau, Mãng Cổ Nhĩ Thái cũng bị hoạch tội, Chính Lam kỳ bị Hoàng Thái Cực thu lại. Đây cũng là lý do tại sao có cách nói "Chính Lam kỳ vốn thuộc Thượng Tam kỳ". Tuy nhiên chỉ khoảng thời gian ngắn thì Chính Lam kỳ được giao cho Hào Cách, cũng từ đây mà Túc vương phủ nắm giữ Chính Lam kỳ.

Kỳ chủ của Bát kỳ thời sơ kỳ
Kỳ 1601 1615 Cuối Thiên Mệnh 1626 1630 1643 1646 1650
Tương Hoàng kỳ Nỗ Nhĩ Cáp Xích Nỗ Nhĩ Cáp Xích Đại kỳ chủ: Nỗ Nhĩ Cáp Xích

Tiểu kỳ chủ: Đa Đạc

Hoàng Thái Cực Hoàng Thái Cực Thuận Trị Thuận Trị Thuận Trị
Chính Hoàng kỳ Đại kỳ chủ: A Tế Cách

Tiểu kỳ chủ: Đa Nhĩ Cổn

Chính Bạch kỳ Chử Anh Hoàng Thái Cực Hoàng Thái Cực Đa Đạc Đa Đạc Đa Nhĩ Cổn Đa Nhĩ Cổn
Tương Bạch kỳ Đỗ Độ Đỗ Độ Đại kỳ chủ: A Tế Cách

Tiểu kỳ chủ: Đa Nhĩ Cổn

Đa Nhĩ Cổn Đại kỳ chủ: Đa Đạc

Tiểu kỳ chủ: A Tế Cách

Hào Cách*
Chính Hồng kỳ Đại Thiện Đại Thiện Đại Thiện Đại Thiện Đại Thiện Đại Thiện Đại Thiện Đại Thiện*
Tương Hồng kỳ Nhạc Thác Nhạc Thác Nhạc Thác Nhạc Thác Nhạc Thác Nhạc Thác
Chính Lam kỳ Thư Nhĩ Cáp Tề Mãng Cổ Nhĩ Thái Mãng Cổ Nhĩ Thái Mãng Cổ Nhĩ Thái Hào Cách Hào Cách Đa Đạc Đa Đạc*
Tương Lam kỳ A Mẫn A Mẫn A Mẫn Tế Nhĩ Cáp Lãng Tế Nhĩ Cáp Lãng Tế Nhĩ Cáp Lãng Tế Nhĩ Cáp Lãng
(*): Trên thực tế Hào Cách, Đại Thiện, Đa Đạc đều đã qua đời, người nắm giữ các Kỳ này là người thừa kế của 3 Vương phủ.

Thời Thuận TrịSửa đổi

Đa Nhĩ Cổn nhiếp chínhSửa đổi

 
Vương công Đại thần Bát kỳ

Năm Sùng Đức thứ 8 (1643), Hoàng Thái Cực qua đời. Sau khi Thuận Trị Đế lên ngôi, Đa Nhĩ Cổn trở thành Nhiếp chính vương, tiến hành cải biên Lưỡng Bạch kỳ, Đa Đạc và A Tế Cách cùng chia nhau Tương Bạch kỳ, Đa Đạc trở thành Đại kỳ chủ của Tương Bạch kỳ, A Tế Cách là Tiểu Kỳ chủ. Bản thân Đa Nhĩ Cổn một mình độc chiếm Chính Bạch kỳ, cũng từ đó mà đưa địa vị của Chính Bạch kỳ từ thứ 5 lên thứ 3, trên cả Lưỡng Hồng kỳ của một nhà Đại Thiện[10].

Từ đó, thứ tự Bát kỳ trở thành: Tương Hoàng kỳ (Thuận Trị) - Chính Hoàng kỳ (Thuận Trị) - Chính Bạch kỳ (Đa Nhĩ Cổn) - Chính Hồng kỳ (Đại Thiện) - Tương Bạch kỳ (Đa Đạc, A Tế Cách) - Tương Hồng kỳ (Nhạc Thác) - Chính Lam kỳ (Hào Cách) - Tương Lam kỳ (Tế Nhĩ Cáp Lãng). Và thứ tự này không hề thay đổi cho đến cuối đời Thanh[10].

Năm Thuận Trị thứ 5 (1648), Đa Đạc và Hào Cách đều qua đời, Đa Nhĩ Cổn diễn một màn đổi kỳ, đem Chính Lam kỳ của Hào Cách quy vào của mình, sau đó lại tiếp tục lấy Chính Lam kỳ đổi lấy Tương Bạch kỳ của Đa Đạc. Kết quả, Đa Ni (con trai Đa Đạc) nắm giữ Chính Lam kỳ, còn Đa Nhĩ Cổn tự mình độc chiếm Lưỡng Bạch kỳ.

Thuận Trị thân chínhSửa đổi

Năm thứ 7 (1650), Đa Nhĩ Cổn qua đời, Thuận Trị Đế bắt đầu thân chính. Để tăng cường Hoàng quyền, ông đích thân nắm giữ Chính Bạch kỳ vốn thuộc về Đa Nhĩ Cổn, lại đem Tương Lam kỳ trả cho Hào Cách. Cũng từ đó, Hoàng đế đích thân thống lĩnh Tương Hoàng kỳ, Chính Hoàng kỳ và Chính Bạch kỳ, xưng là "Thượng Tam kỳ".

Kỳ tịch của Hoàng đế thuộc Tương Hoàng kỳ, xưng là "Tương Hoàng kỳ Đệ nhất Tham lĩnh Đệ nhất Tá lĩnh thượng ngự danh"[chú thích 1]. Cũng vì vậy mà Tương Hoàng kỳ trở thành Kỳ đứng đầu (头旗, tiếng Mãn: ᡶᡝᡵᡝ
ᡤᡡᠰᠠ
, Möllendorff: fere gūsa) của Bát kỳ[11].

 
Binh lính của Hồng kỳ

Danh sách các Kỳ cụ thể như sau:

Danh xưng Cờ hiệu Chữ Mãn Âm Mãn Chữ Mông Cổ
(chữ cái Kirin)
Phân loại
Tương Hoàng kỳ     Kubuhe Suwayan-i Gūsa Хөвөөт Шар Хошуу Thượng Tam kỳ
Chính Hoàng kỳ     Gulu Suwayan-i Gūsa Шүлүүн Шар Хошуу Thượng Tam kỳ
Chính Bạch kỳ     Gulu Sanggiyan-i Gūsa Шүлүүн Цагаан Хошуу Ban đầu thuộc Hạ Ngũ kỳ, về sau chuyển thuộc Thượng Tam kỳ
Chính Hồng kỳ     Gulu Fulgiyan-i Gūsa Шүлүүн Улаан Хошуу Hạ Ngũ kỳ
Tương Bạch kỳ     Kubuhe Sanggiyan-i Gūsa Хөвөөт Цагаан Хошуу Hạ Ngũ kỳ
Tương Hồng kỳ     Fubuhe Fulgiyan Gūsa Хөвөөт Улаан Хошуу Hạ Ngũ kỳ
Chính Lam kỳ     Gulu Lamun-i Gūsa Шүлүүн Хөх Хошуу Ban đầu thuộc Thượng Tam kỳ, về sau chuyển thuộc Hạ Ngũ kỳ.
Tương Lam kỳ     Kubuhe Lamun-i Gūsa Хөвөөт Хөх Хошуу Hạ Ngũ kỳ

Hình thành Mông - Hán Bát kỳSửa đổi

 
Một cấm vệ Mãn Kỳ thời Càn Long

Lúc mới hình thành Bát kỳ, trong tên gọi Kỳ không hề phân chia dân tộc (Mãn - Mông - Hán). Đến năm 1629, sau khi Hoàng Thái Cực lên ngôi mới thấy có sự xuất hiện của ghi chép về hai kỳ thuộc Mông Cổ[12].

Năm 1635, sau khi Hậu Kim chinh phục Sát Cáp Nhĩ bộ đã tiến hành một cuộc sắp xếp biên chế quy mô lớn đối với đông đảo tráng niên Mông Cổ, bắt đầu hình thành nên Mông Cổ Bát kỳ[13][14]. Còn về Hán Quân Bát kỳ, vốn là sau khi quân Hậu Kim tiến vào cùng Liêu Ninh - Thẩm Dương, bắt và thu hàng được rất đông quân nhân người Hán, dùng hình thức nô bộc phân chia cho các Bối lặc, Đại thần.

Sau khi Hoàng Thái Cực lên ngôi, đã biên tổ Hán Quân Ngưu lục, dùng khoa cử, đề cử học sinh các loại để đề cao đãi ngộ của những người Hán này, khiến họ thoát khỏi thân phận nô bộc, trở thành người có hộ khẩu Kỳ tịch[15]. Kỳ Hán Quân đầu tiên xuất hiện vào năm 1631, sau đó tách làm hai màu Đen - Xanh vào năm 1637, đến năm 1639 thì tách làm bốn kỳ. Đến năm 1642, tổ chức lại các Ngưu lục Hán Quân, phân vào Tám kỳ, Hán Quân Bát kỳ[16] chính thức trở thành một bộ phận của Bát kỳ.

Từ đây, bởi Bát kỳ được tạo bởi ba bộ phận chính là Mãn Châu - Mông Cổ - Hán quân mà một ít sử liệu sẽ gọi chung là "Nhị thập tứ Kỳ" (24 Kỳ)[17][18], tuy nhiên, Mãn Châu - Mông Cổ - Hán quân dưới mỗi Kỳ là một chỉnh thể, cùng thuộc sự quản lý hành chính của một Kỳ chủ[19].

Việc mở rộng về cơ cấu Bát kỳ khiến cho biên chế quân chủ lực của nhà Thanh tăng lên đáng kể, lên đến 170.000 binh sĩ trong thời gian người Mãn Châu xâm chiếm Trung Quốc[6]. Bên cạnh quân Bát kỳ Mãn Châu tinh nhuệ là các chiến binh Mông Cổ với sở trường cơ động thiện chiến và các đội quân người Hán mạnh mẽ về bộ binh và công thành. Vì là người Mãn nên quân Mãn Châu Bát kỳ rất được tin dùng và có nhiều ưu đãi hơn là Mông Cổ Bát kỳ và Hán Tộc Bát kỳ. Đạo quân Mông Cổ cũng được tin dùng vì xứ này đã bị sáp nhập vào Mãn Châu trước khi Trung Hoa bị chinh phục. Đây là đạo kỵ binh rất thiện chiến nhưng sau này nhuệ khí suy sụp và cũng trở thành kiêu binh, cho đến 1860 thì bị thua trước quân Niệp.

Chinh phục nhà MinhSửa đổi

 
Trận Sarhū hay Trận Tát Nhĩ Hử

Vào thế kỷ 17 ở Đông Á, Bát kỳ Mãn Châu một đạo quân được xem là hùng mạnh, thiện chiến với những chiến công như đánh bại triều Minh (trong trận Tát Nhĩ Hử), bình Triều Tiên, nô dịch Mông Cổ, đánh Sa hoàng Nga, nhất thống Trung Quốc. Đội quân này có thể nói là niềm huy hoàng cuối cùng trong quân sự cổ đại Trung Quốc. Trang bị của đạo quân này không quá tối tân nhưng vũ khí tinh thần và sĩ khí của đạo quân này là đáng chú ý nhất. Biên chế quân sự nghiêm ngặt, điều kiện sinh hoạt ác liệt, năng lực sinh tồn mạnh mẽ đã khiến đạo quân này cuối cùng đánh bại triều Minh thống nhất Hoa Hạ.[20][21] Đồng thời đạo quân này cũng mang tiếng xấu là xâm lược và tàn bạo, nhà văn Kim Dung trong tác phẩm Lộc đỉnh ký cũng có nhắc đến sự tàn bạo, cướp phá của Mãn Châu Bát kỳ.[22]

Đạo quân này phát triển đông đảo tới gần 200.000 quân của người Mãn Châu và được chia thành 2 phần một nửa được chỉ định vào Cấm Lữ Bát kỳ (禁旅八旗 Jìnlǚ Bāqí) đóng quân tại Bắc Kinh. Họ vừa đóng vai trò đội quân đồn trú của chính phủ nhà Thanh vừa là lực lượng chiến đấu. Số còn lại được chia vào nhiệm vụ canh gác các thành phố quan trọng ở Trung Quốc. Họ được gọi là Trú Phòng Bát kỳ (駐防八旗). Ngoài ra, việc phân chia Mãn tộc Bát kỳ, Mông Cổ Bát kỳ và Hán tộc Bát kỳ một cách rõ ràng còn là vấn đề của hậu cung Thanh triều. Các tú nữ, phi tần, cung nữ trong hậu cung tuy được tuyển từ cả ba tộc, nhưng vẫn ưu tiên Mãn tộc làm gốc, kế là Mông và cuối là Hán. Hoàng Hậu các đời đều xuất thân từ Mãn - Mông (xem thêm Hậu cung nhà Thanh).

Triều đình nhà Thanh có lòng tin rất lớn đối với Bát kỳ, trọng trách bảo vệ kinh thành cũng được giao cho đội quân thiện chiến này. Những binh lính thuộc Bát kỳ thường dành ra nhiều thời gian trên thao trường để tập luyện trong 8 tháng/năm, với 6 đợt/tháng và 5 lần/đợt, vào thời điểm cách đây khoảng hơn 300 năm thì việc tổ chức được một khóa đào tạo và rèn luyện sử dụng vũ khí với tần suất như vậy là rất hiếm.

Do được triều đình ưu đãi nên lương bổng của Bát kỳ cũng tốt hơn Lục doanh, một năm lĩnh 48 hũ gạo (1 hũ = 10 đấu, sau sửa thành = 5 đấu), lương tháng thì 3-4 lạng bạc, gấp đôi quân nhân Lục doanh.

Cơ cấu tổ chứcSửa đổi

Biên chế cơ bảnSửa đổi

Theo quy định của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, mọi người dân trong các bộ lạc Nữ Chân đều quy thuộc biên chế tổ chức nhân sự vào một trong 8 nhóm bộ lạc, được gọi là các "Kỳ" mà mỗi kỳ này là tập hợp tổ chức các bộ lạc, vừa là các đơn vị dân sự vừa mang tính chất quân sự. Về căn bản, ông vẫn giữ nguyên hình thức bộ lạc, vẫn duy trì chế độ tù trưởng (mà người Nữ Chân gọi là Beile: âm Hán Việt: Bối lặc), nhưng căn cứ theo số lượng người Nữ Chân có trong các bộ (bộ lạc), phân chia trên cơ sở như sau:[16][23]

Cơ sở Tổ chức Người đứng đầu Thay đổi
300 nam giới[chú thích 2] Ngưu lục (Niru)[24] Ngưu lục Ngạch chân (牛彔額真; tiếng Mãn: ᠨᡳᡵᡠ ᡝᠵᡝᠨ, Möllendorff: niru ejen) [chú thích 3]. Năm 1634, Ngưu lục Ngạch chân đổi thành Ngưu lục Chương kinh (牛录章京, tiếng Mãn: ᠨ᠋ᡳᡵᡠ
ᠵᠠᠩᡤᡳᠨ
, Möllendorff: niru janggin).

Năm 1660, Ngưu lục Chương kinh được định danh trong tiếng Hán là Tá lĩnh.

5 Ngưu lục Giáp Lạt

(Jalan)

Giáp lạt Ngạch chân (甲喇额真; tiếng Mãn: ᠵᠠᠯᠠᠨ 
ᡝᠵᡝᠨ
, Möllendorff: jalan ejen) [chú thích 4].
Năm 1634, Giáp lạt Ngạch chân đổi thành Giáp Lạt Chương Kinh (甲喇章京, tiếng Mãn: ᠵᠠᠯᠠᠨ ᡳ
ᠵᠠᠩᡤᡳᠨ
, Möllendorff: jalan i janggin).

Năm 1660, Giáp lạt Chương kinh được định danh trong tiếng Hán là Tham lĩnh.

5 Giáp lạt Kỳ / Cố sơn (Gūsa) Cố sơn Ngạch chân (固山額真, tiếng Mãn: ᡤᡡᠰᠠ ᡳ ᡝᠵᡝᠨ, Möllendorff: gūsa i ejen) Năm 1660, Cố sơn Ngạch chân được định danh trong tiếng Hán là Đô thống.

Năm 1723, Cố sơn Ngạch chân đổi thành Cố sơn Ngang bang (固山昂邦, tiếng Mãn: ᡤᡡᠰᠠ ‍ᡳ ᠠᠮᠪᠠᠨ, Möllendorff: gūsa i amban, hay tiếng Mãn: ᡤᡡᠰᠠ ᠪᡝ
ᡴᠠᡩᠠᠯᠠᡵᠠ
ᠠᠮᠪᠠᠨ
, Möllendorff: gūsa be kadalara amban)

Ở các kỳ quan trọng còn có thêm 2 đơn vị là Mai lặc (Meiren), gồm 10 Ngưu lục hợp thành, đứng đầu là một Mai lặc Ngạch chân (Meiren-i Ejen), danh xưng Hán Việt: Phó Đô thống.

Vì vậy tổ chức cơ bản trong Kỳ sẽ là Ngưu lục < Giáp Lạt (< Mai lặc) < Kỳ, ứng với chức vụ quản lý là Tá lĩnh < Tham lĩnh < Phó Đô thống < Đô thống. Trên các Đô thống là các Kỳ chủ, Lĩnh chủ[chú thích 5], do bản thân Nỗ Nhĩ Cáp Xích và con cháu tức các Bối lặc đảm nhiệm, là các Nhập bát phân Vương công[28]. Các Bối lặc này được xem là có địa vị cao hơn các Bối lặc khác, nên còn được gọi là các Hòa Thạc Bối lặc (Holson Belei).

Phân chia Bát kỳSửa đổi

Trong Bát kỳ này lại có sự phân chia thứ bậc nhất định:

  • "Thượng Tam kỳ" (上三旗): bao gồm Tương Hoàng kỳ, Chính Hoàng kỳChính Bạch kỳ[chú thích 6], do Hoàng đế đích thân thống lĩnh. Chỉ những người Mãn thuộc Thượng Tam kỳ mới được đích thân Hoàng đế lựa chọn vào đội bảo vệ riêng của mình.
  • "Hạ Ngũ kỳ" (下五旗): bao gồm Chính Hồng kỳ, Tương Bạch kỳ, Tương Hồng kỳ, Chính Lam kỳTương Lam kỳ. Ban đầu được giao cho các Bối lặc thân tín của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, thay mặt Đại Hãn nắm quyền quản lý, và thường được gọi theo nghi thức là "Hòa Thạc" (Hošoi, trong tiếng Mãn có nghĩa là "người được đặc biệt tôn kính"). Họ cùng nhau tạo thành một hội đồng quản lý quốc gia Mãn Châu cũng như bộ tư lệnh quân đội, phụ tá cho Nỗ Nhĩ Cáp Xích, được gọi là "Hòa Thạc Bối lặc" (Hošoi Beile). Về sau, người đứng đầu Hạ Ngũ kỳ là các Thiết mạo tử vương.

Cả Bát kỳ lại được chia là "Tả dực" tức cánh trái (gồm Tương Hoàng kỳ, Chính Bạch kỳ, Tương Bạch kỳ, Chính Lam kỳ) và "Hữu dực" tức cánh phải (gồm Chính Hoàng kỳ, Chính Hồng kỳ, Tương Hồng kỳ, Tương Lam kỳ)

Quân Bát kỳ trong một buổi duyệt binh thời Càn Long. Quân Hữu dực ở bên trái ảnh, quân Tả dực ở bên phải ảnh.
Người đứng đầu Bát kỳ [29]
Thứ bậc Danh xưng Kỳ chủ Lĩnh chủ khác Cánh quân
Thượng Tam kỳ Tương Hoàng kỳ Hoàng đế Không có Trái
Chính Hoàng kỳ Phải
Chính Bạch kỳ Trái
Hạ Ngũ kỳ Chính Hồng kỳ Lễ Thân vương Thuận Thừa Quận vương Phải
Tương Bạch kỳ Dự Thân vương Thuần Thân vương Trái
Tương Hồng kỳ Khắc Cần Quận vương Trang Thân vương Phải
Chính Lam kỳ Túc Thân vương Duệ Thân vương
Di Thân vương
Trái
Tương Lam kỳ Trịnh Thân vương Cung Thân vương

Khánh Thân vương

Phải

Như vậy, chế độ Bát kỳ về mặt quân sự là 8 cánh quân, về mặt dân sự 8 nhóm bộ tộc, phân biệt bởi hiệu cờ chỉ huy, vì vậy còn được gọi theo âm Hán Việt là Bát kỳ, mỗi Kỳ có một màu chủ đạo riêng biệt. Đây là một hình thức quân đội dân tộc, là sự hợp nhất giữa binh và nông[30]. Hoàng đế là người thống trị tối cao của toàn Bát kỳ cả về quân sự lẫn dân sự[31].

Vì chủ nhân trực tiếp của Thượng Tam kỳ là Hoàng đế, nên trong một số trường hợp Đại thần có công lao hoặc gia đình của Hậu phi thường được đưa từ Hạ Ngũ kỳ vào Thượng Tam kỳ, xưng là "Đài kỳ" (抬旗). Còn trong trường hợp đổi hộ khẩu sang Kỳ sắc hoặc Kỳ phân khác thì gọi là "Đổi kỳ"[32].

Sau khi nhập quan, các Tông thất Vương công đều được phân vào Hạ Ngũ kỳ, Hoàng tử phân phủ cũng được phân vào đây. Trong các tước vị của nhà Thanh phân ra thành "Nhập bát phân" và "Bất nhập bát phân", những Tông thất Vương công hay Hoàng tử được phong tước trong "Nhập bát phân" đều được phân vào làm chủ Hạ Ngũ kỳ. Tuy nhiên có một số Hoàng tử trước khi nhập quan có thân phận quá thấp, không thể được phong tước vị "Nhập bát phân", từ đó hậu duệ đều một mực ở trong Thượng Tam kỳ:

  1. Ba Nhã Lạt, em trai thứ 5 của Nỗ Nhĩ Cáp Xích: 1 chi phân vào Tương Hoàng kỳ, 1 chi phân vào Tương Bạch kỳ.
  2. Thang Cổ Đại, con trai thứ 4 của Nỗ Nhĩ Cáp Xích: Chính Bạch kỳ
  3. Tháp Bái, con trai thứ 6 của Nỗ Nhĩ Cáp Xích: Chính Bạch kỳ
  4. Ba Bố Thái, con trai thứ 9 của Nỗ Nhĩ Cáp Xích: Chính Hoàng kỳ
  5. Diệp Bố Thư, con trai thứ 4 của Hoàng Thái Cực: Chính Hoàng kỳ
  6. Cao Tắc, con trai thứ 6 của Hoàng Thái Cực: Chính Hoàng kỳ
  7. Thường Thư, con trai thứ 7 của Hoàng Thái Cực: Tương Hoàng kỳ
  8. Thao Tắc, con trai thứ 10 của Hoàng Thái Cực: Tương Hoàng kỳ

Vì vậy, ngoại trừ Giác La - phần lớn đều là "Bất nhập bát phân", còn lại 8 chi Tông thất trong Thượng Tam kỳ đều là vì xuất thân quá thấp.

Trên thực tế, việc phân chia "Thượng Tam kỳ" với "Hạ Ngũ kỳ" chỉ ảnh hưởng đến Kỳ phân của Tông thất và tầng lớp Bao y Tá lĩnh, còn lại không ảnh hưởng trực tiếp đến các Kỳ nhân thông thường. Bao y Tá lĩnh thuộc Nội vụ phủ chủ yếu phục vụ cho Cung đình, còn Bao y Tá lĩnh thuộc Hạ Ngũ kỳ thì đều thuộc về các Vương phủ, bản thân các Kỳ chủ của mỗi Kỳ.

Thời kỳ phát triểnSửa đổi

 
Càn Long Đế kiểm duyệt tướng sĩ Bát kỳ

Ban đầu, mỗi kỳ có 7.500 quân, tổng cộng 8 kỳ có 6 vạn quân[33]. Về sau, thông qua việc chinh phục các bộ lạc, số lượng binh sĩ trong các Kỳ tăng dần lên. Khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích đánh thành Ninh Viễn, tổng binh lực quân Bát kỳ huy động đã lên đến 13 vạn.

Trước khi nhập quan, vì duy trì chế độ phân phong Bát kỳ cho các Lĩnh chủ mà các Kỳ chủ có quyền sở hữu tuyệt đối đối với tài vật và thuộc nhân trong Kỳ của mình quản lý. Nhưng từ sau khi Thuận Trị Đế đích thân thống lĩnh Thượng Tam kỳ, chế độ phân chia Bát kỳ cũ triệt để bị phá vỡ. Vì để tăng cường Trung ương tập quyền, Hoàng đế bắt đầu thu hồi quyền lực to lớn của các Kỳ chủ và các Nhập bát phân Vương công Lĩnh chủ trong Kỳ của họ[34].

Trong thời Thuận Trị, bắt đầu sử dụng chế độ mới đối với các Vương công, thay thế cho chế độ các Đại kỳ chủ chia đều quyền lực, cũng chấm dứt chế độ "Bát kỳ Nghị chính"[35]. Càng về sau, quyền khống chế của các Kỳ chủ đối với quân đội của bản Kỳ cũng dần yếu đi.

Đến thời Ung Chính, để tiến xa hơn một bước trên con đường tăng cường Trung ương tập quyền, Ung Chính Đế lấy lý do "Thiên hạ không thể có hai mặt trời" hạ chỉ dụ, xác định vị trí "Bát kỳ cộng chủ" (Chủ nhân chung của toàn bộ Bát kỳ) là Hoàng đế, chính thức chấm dứt quyền sỡ hữu trực tiếp của các Kỳ chủ đối với mỗi Kỳ (bao gồm quân đội, quan viên, tài vật,...)[36], chỉ lưu lại quyền khống chế trực tiếp đối với thuộc hạ tầng lớp Bao y. Từ đây, tất cả Kỳ phân Tá lĩnh đều hoàn toàn trực thuộc Hoàng đế. Quyền bổ nhiệm và bãi miễn quan viên trong Kỳ của mỗi Kỳ chủ bị đoạt đi toàn bộ, chưa kể trước đó trong thời Khang Hi, Đô thống Bát kỳ thi hành chế độ nhậm chức theo khóa kỳ, tránh việc các Vương công nắm thực quyền lớn[37].

Năm Ung Chính nguyên niên (1723), nhà Thanh chính thức thiết lập Nha môn cho Đô thống Bát kỳ, chấm dứt tình trạng các Đô thống "làm việc tại phủ", không có công sở nha môn đã kéo dài trong suốt hơn 100 năm qua.

Trên phương diện chính trị, nhà Thanh áp dụng chế độ phân chia "Kỳ nhân"[chú thích 7] và "Dân nhân"[chú thích 8]. Trên đất của người Hán, nhà Thanh vẫn áp dụng những chính sách cai trị cũ của nhà Minh, nhưng những người chịu sự quản lý của chế độ Bát kỳ thì có một hệ thống quản lý riêng, dường như giống với "Bên trong Trung Quốc có một Mãn Châu quốc"[38]. Nhà Thanh lấy chế độ Bát kỳ làm hệ thống căn bản của quốc gia[39], vì vậy những "Kỳ nhân" luôn có đặc quyền nhất định từ giáo dục, khoa cử, nhậm chức đến kinh tế, quân sự. Chức nghiệp chính của phần lớn con em Bát kỳ là mặc giáp tòng quân, "toàn dân đều là binh", thời bình thì tham gia sản xuất, thời chiến thì tòng chinh.

Sau khi nhập quan, vì để củng cố sự thống trị, đồng thời giải quyết nỗi lo về sau của quan binh Bát kỳ, nhà Thanh thiết lập chế độ quân đội Bát kỳ thường trực và chế độ lương bổng[40].

Dân cưSửa đổi

Tộc duệSửa đổi

Trên cơ bản, Bát kỳ chia làm 3 tộc phân chính là Mãn Châu Bát kỳ, Mông Cổ Bát kỳ và Hán Quân Bát kỳ, nhưng cụ thể mà nói thì rất phức tạp. Tộc duệ của Bát kỳ lấy Mãn Châu làm trung tâm, bộ phận chinh là Mông Cổ và Hán Quân, ngoài ra còn có Cao Ly, Sách Luân, Tích Bá, HồiNga La Tư.

Những người vốn là người Hán (hay còn gọi là Ni Kham trong tiếng Mãn), một phần được phân vào Hán Quân Bát kỳ, một phần khác lại được phân vào Nội vụ phủ Kỳ cổ Tá lĩnh, một bộ phận nhỏ khác lại được phân vào Mãn Châu Bát kỳ[41].

Những người vốn là người Mông Cổ, chủ yếu được phân vào Mông Cổ Bát kỳ, một bộ phận nhỏ được phân vào Mãn Châu Bát kỳ[42], một bộ phận cực nhỏ khác từng làm quan thời Minh thì được phân vào Hán Quân Bát kỳ[43].

Những người vốn là người Cao Ly, một phần nhỏ được phân vào Kỳ phân Tá lĩnh của Mãn Châu Bát kỳ, còn phần lớn đều phân vào tầng lớp Bao y dưới Nội vụ phủ Cao Ly Tá lĩnh[44][45].

Còn những tộc người như Tích Bá, Sách Luân, chủ yếu là vào những năm Thiên Thông, Sùng Đức, theo quân Hậu Kim chinh chiến, sau lại theo quân Thanh nhập quan mà được phân vào Mãn Châu Bao y[chú thích 9] của Bát kỳ.

Những người Hồi phần lớn đều là người thuộc Hòa Trác thị đến Kinh sư vào những năm Càn Long[46].

Những người Nga như A Nhĩ Ba Tân quy phụ Đại Thanh vào những năm Thuận Trị, Khang Hi, được phân vào "Tương Hoàng kỳ Mãn Châu đệ tứ Tham lĩnh đệ thập thất Tá lĩnh", tục xưng "Nga La Tư Tá lĩnh"[47].

Nga La Tư Tá lĩnhSửa đổi

Năm Khang Hi thứ 24 (1685), sau thất bại tại cuộc chiến Nhã Khắc Tát, quân đội Sa Hoàng xâm lược có 101 người bị áp giải đến Bắc Kinh. Trong thời Khang Hi, tiêu chuẩn định ngạch của Bát kỳ Mãn Châu Tá lĩnh là 100 người. Mà những người Nga được đưa tới Bắc Kinh này, vừa vặn đủ điều kiện.

Năm 1685, triều đình nhà Thanh chính thức ban bố mệnh lệnh, đám người A Nhĩ Ba Tân này được phân vào quân bảo vệ Kinh kỳ của Tương Hoàng kỳ, thuộc vào "Tương Hoàng kỳ Mãn Châu đệ tứ Tham lĩnh đệ thập thất Tá lĩnh", đóng quân ở ngõ nhỏ Hồ Gia Viên bên ngoài Đông Trực môn.

Không chỉ vậy, triều nhà Thanh còn ban chức quan từ Tứ phẩm đến Thất phẩm cho các quân quan bị bắt làm tù binh này, đồng thời đãi ngộ không hề khác biệt so với người Mãn, ban cho họ phòng ốc, đất đai, lại định kỳ phát tiền trợ cấp, hơn nữa còn đem những nữ phạm nhân trong Nha môn Bộ quân Thống lĩnh ban cho những người này làm thê thiếp.

Cao Ly Tá lĩnhSửa đổi

Thời Minh mạt Thanh sơ, một bộ phận người Triều Tiên bị cưỡng ép hoặc tự nguyện mà dời đến vùng Đông Bắc của Trung Quốc, những người bị cưỡng ép chủ yếu là tù binh bị bắt giữ trong các cuộc chiến. Những người này, có một bộ phận được phân vào Bát kỳ.

Theo《Bát kỳ thông chí · Kỳ phân chỉ》 cùng với 《Thanh triều thông chí》, 《Thanh hội điển》, dòng họ Triều Tiên không chỉ tồn tại trong Mãn Châu Bát kỳ mà còn có chuyên chúc Tá lĩnh, như đệ cửu, thập Tá lĩnh của Chính Hoàng kỳ đệ tứ Tham lĩnh, đệ thập nhị, thập tam, thập tứ, thập ngũ Tá lĩnh thuộc Chính Hồng kỳ đệ nhất Tham lĩnh đến, đều là "Cao Ly Tá lĩnh" trong Mãn Châu Bát kỳ. Bởi vậy có thể thấy, nhân khẩu Cao Ly trong Mãn Châu Bát kỳ số lượng tương đối đông.

Trong 《Mãn Châu thị tộc thông phổ》có ghi chép trong Mãn Châu Bát kỳ có tất cả 41 dòng họ Cao Ly, tương ứng với tình huống của Bát kỳ Tá lĩnh thì có 115 loại, mà trong đó chân chính là Bát kỳ chỉ có 20 loại, khoảng 18%. Còn lại phần lớn người Cao Ly trong Bát kỳ đều là Bát kỳ Bao y. Khác với một bộ phận người Hán được đưa vào Kỳ cổ Tá lĩnh, người Cao Ly tiến vào thân phận Bao y đều là Bao y Tá lĩnh. Có thể thấy được, mặc dù Cao Ly có chút khác với Mãn Châu, nhưng không hề bị xem là cùng đẳng cấp với Ni Kham. Về mặt cơ bản, những người Cao Ly thường xuyên được chia vào "Mãn Châu" hoặc "Mãn Châu Bao y". Trong Thông phổ, Càn Long Đế cũng nhắc đến "Mông Cổ, Cao Ly phần nhiều tương tự với Mãn Châu, chiếu theo thức dạng của dòng họ Mãn Châu mà ghi chép".

Mặc dù nói Cao Ly Tá lĩnh không cùng đẳng cấp với Kỳ cổ Tá lĩnh, nhưng trên thực tế, người thuộc Cao Ly Tá lĩnh trình độ xuất sĩ làm quan lại rất thấp, chủ yếu là Thị vệ, Bút thiếp thức trong tầng lớp Bao y, rất hiếm trường hợp được như những Ni Kham thuộc Kỳ cổ Tá lĩnh đảm nhiệm chức quan ở bên ngoài. Tuy nhiên điều này cũng có ngoại lệ, chính là gia tộc Kim thị, thủy tổ là Tân Đạt Lý quy phụ Hậu Kim vào những năm Thiên Thông, góp một phần công lao không nhỏ trong cuộc chiến giữ quân Hậu Kim và Triều Tiên. Cháu nội của ông ta là Thường Minh nhiều lần đảm nhiệm Ngự tiền Đại thần, Lĩnh thị vệ Nội đại thần, Nội vụ phủ Tổng quản. Đây cũng là gia tộc của Thục Gia Hoàng quý phi, về sau được đổi thành "Kim Giai", là một vinh dự hiếm thấy của bộ phận người Cao Ly này.

Tầng lớpSửa đổi

Trong Bát kỳ, có thể chia làm 3 tầng lớp cơ bản: Ngoại Bát kỳ, Nội Bát kỳ (tức Bao y) và Kỳ hạ Gia nô. Ngoại Bát kỳ chính là tức Kỳ phân Tá lĩnh trong Bát kỳ, nguyên là những người tự do thời Thanh trước khi nhập quan, cũng là một giai tầng phổ biến nhất của người Bát kỳ. Từ hậu duệ Quý tộc, hào môn thế gia, đến các con em Bát kỳ bình thường, ở giữa mặc dù có nhiều cấp bậc tước vị khác nhau, nhưng đều thuộc vào tầng lớp này[48]. Tầng lớp này được chia ra 3 phân hệ Bát kỳ chính là Mãn Châu, Mông CổHán Quân.

Nội Bát kỳ chính là Bao y, là tầng lớp phục vụ cho Hoàng thất Ái Tân Giác La, tức là Hoàng đế và các Kỳ chủ, Lĩnh chủ, Tông thất Vương công khác. Tuy nhiên, ngoài việc túc trực phục vụ Hoàng thất, thì Bao y là giai cấp có địa vị trong xã hội Mãn Châu, ngang bằng với tầng lớp Ngoại Bát kỳ, đều có hộ tịch chính thức và căn cứ theo "Luật lệ Đại Thanh", họ đều được xem là "lương dân" trong xã hội. Thượng Tam kỳ Bao y trực thuộc Nội vụ phủ, vì vậy thường gọi là Nội vụ phủ Bao y. Người thuộc tầng lớp Bao y cũng là người Bát kỳ chân chính, bọn họ cũng có thể có nô gia của riêng mình như những người Kỳ phân Tá lĩnh, chính là tầng lớp Kỳ hạ Gia nô (旗下家奴)[49]. Những người vốn thuộc tầng lớp Bao y cũng có thể được phân vào Kỳ phân Tá lĩnh nhờ công lao hoặc là người nhà của Hậu phi đắc sủng, thường là quy vào Mãn Châu hoặc Hán Quân Bổn kỳ (tức Bao y thì nâng lên Mãn Châu Tương Hoàng kỳ hoặc Hán Quân Tương Hoàng kỳ), trường hợp này được gọi là "Xuất kỳ", cũng là một loại của "Đài kỳ"[32]. Tầng lớp này chia làm Bao y Tá lĩnh, Bao y Kỳ cổ Tá lĩnh và Bao y Quản lĩnh, trong đó Bao y Tá lĩnh còn có thể được gọi là Bao y Mãn Châu Tá lĩnh để phân biệt.

Kỳ hạ Gia nô chính là gia bộc của Bát kỳ Đại thần và những Kỳ nhân phổ thông khác, bọn họ không có hộ tịch độc lập mà thuộc về dưới danh nghĩa của chủ nhân, vì vậy mà bị xưng là "Hộ hạ nhân"[50] hoặc "Bát kỳ hộ hạ Gia nhân"[51]. Theo "Luật lệ Đại Thanh", tầng lớp Kỳ hạ Gia nô thuộc về tầng lớp "tiện dân" trong xã hội, hoàn toàn không được tham gia khoa cử, hoặc xuất sĩ làm quan. Thời Thanh sơ, cho dù là binh lính Bát kỳ thông thường cũng có đông đảo Gia nô, phần đông trong số đó đều theo chủ nhân chinh chiến. Sau khi lập được chiến công, có khả năng sẽ được lập hộ tịch, trở thành "Khai hộ nhân", mặc dù tốt hơn so với Kỳ hạ Gia nô, nhưng chung quy vẫn thấp hơn so với người Bát kỳ, trong việc tuyển chọn binh lính, cũng chỉ có thể đảm nhậm những vị trí cực thấp. Thời Thanh trung - hậu kỳ, kế sinh nhai của người Bát kỳ càng lúc càng hiện ra vấn đề, phần đông Kỳ hạ Gia nô bị thả ra, hoặc bán cho những người Hán có tiền, rất nhiều Kỳ nhân không còn tiếp tục sở hữu Gia nô[52]. Mà phần lớn "Khai hộ nhân" cũng được Càn Long cho "Xuất kỳ", tuy nhiên một bộ phận nhỏ "Khai hộ nhân" tồn tại đã lâu, không thể tra nguồn gốc nên không thể đưa vào hàng ngũ Bát kỳ[53].

Nhân khẩuSửa đổi

Thời Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Hoàng Thái Cực, tổ chức Bát kỳ phát triển tương đối nhanh. Trước khi nhập quan, Mãn Châu Bát kỳ có 309 Tá lĩnh, 18 Bán phân Tá lĩnh; Mông Cổ Bát kỳ có 117 Tá lĩnh, 5 Bán phân Tá lĩnh; Hán Quân Bát kỳ có 157 Tá lĩnh, 5 Bán phân Tá lĩnh; Mãn - Mông - Hán Bát kỳ tổng cộng 583 Tá lĩnh, 28 Bán phân Tá lĩnh.

Thời kỳ đầu sau nhập quan, do nhu cầu chiến tranh thống nhất Trung Quốc và bình định các cuộc nổi dậy phản Thanh, Mãn Châu Bát kỳ phát triển nhanh chóng.

  • Mãn Châu Bát kỳ thời Thuận Trị tăng thêm 8 Tá lĩnh, đạt 699 Tá lĩnh thời Khang Hi và 681 Tá lĩnh thời Gia Khánh.
  • Mông Cổ Bát kỳ tăng thêm 11 Tá lĩnh thời Thuận Trị, 76 Tá lĩnh thời Khang Hi và chính thức định chế tổng cộng 204 Tá lĩnh vào năm Ung Chính thứ 2 (1724). Lúc mới lập ra Bát kỳ, có một số lượng người Mông Cổ được phân vào Mãn Châu Bát kỳ, tính đến thời Thanh mạt thì có 35 Tá lính và 2 Bán phân Tá lĩnh vốn là người Mông Cổ nhưng lại xếp vào Mãn Châu Bát kỳ.
  • Hán Quân Bát kỳ có tất cả 206 Tá lĩnh và 3 Bán phân tá lĩnh vào năm Thuận Trị thứ 15 (1658). Đến năm Khang Hi thứ 51 (1712) tăng đến 258 Tá lĩnh, 1 Bán phân Tá lĩnh. Đến năm Ung Chính thứ 12 (1734), chính thức định chế 270 Tá lĩnh. Về sau, vì kế sinh nhai của Bát kỳ càng lúc càng khó khăn, một bộ phận người thuộc Hán Quân đã xuất kỳ, trở thành dân nhân[chú thích 10]. Đến năm Càn Long thứ 15 (1790), Hán Quân Tá lĩnh giảm còn 266, từ đó về sau không thay đổi nữa.

Đặc thù của chế độ Bát kỳ là lấy Kỳ quản lý người, cũng là lấy Kỳ quản lý binh. Phàm là người được đãi vào một Kỳ đều có thể làm binh. Tuy nhiên, hạn ngạch binh lính của nhà Thanh là có giới hạn, theo số lượng người Mãn càng lúc càng tăng, không phải người Mãn nào cũng được mặc giáp, mà càng về sau tỉ lệ người Mãn được mặc giáp càng ngày càng thấp. Ban đầu, những Kỳ nhân nhàn tản mặc đều được ban cho ruộng đất nhưng vì bị trói buộc bởi chế độ mà không tiện canh tác, chỉ có thể đem cho tá điền thuê hoặc đem đi cầm cố, dẫn đến tình cảnh của những người Bát kỳ ở tầng lớp dưới càng ngày càng khó khăn, lâm vào trạng thái bần cùng[54]. Vì vậy đến những năm Càn Long, vấn đề kế sinh nhai của người Bát kỳ hiện ra rõ ràng, để giảm bớt đi vấn đề, một bộ phận người thuộc Hán Quân đã xuất kỳ, trở thành dân nhân[55].

Xã hộiSửa đổi

Khái quátSửa đổi

Chế độ Bát kỳ "Dĩ Kỳ thống quân, dĩ Kỳ thống nhân"[chú thích 11], ngoài ra còn quản lý hành chính, kinh tế cùng với tổ chức gia tộc. Dưới Ngưu lục Ngạch chân thiết lập 2 chức Phó, lại thiết lập 4 Bạt thập khố, quản lý thôn làng đồn điền. Ngưu lục Ngạch chân và cấp phó quản lý tất cả những vấn đề về quân sự, dân chính, kinh thế, đất đai, tố tụng và hôn sự tang sự các loại, nhưng chủ yếu vẫn là quân sự. Binh lính Bát kỳ "Xuất tắc vi binh, như tắc vi dân", bình thường vẫn canh tác săn bắn, lúc có chiến tranh thì sẵn sàng xuất chinh. Lúc xuất chinh, thu bất kỳ tài vật gì cũng phân phối theo quân công.

Kinh tếSửa đổi

Trước kia, trong quan niệm của người Mãn Châu, tất cả những tài nguyên như sông ngòi, đất đai, rừng rậm, thậm chí là không khí, ánh mặt trời đều là những thứ thuộc sở hữu chung. Sau khi thành lập Hậu Kim, quan niệm "Đất đai công hữu" này vẫn còn ảnh hưởng lớn, Nỗ Nhĩ Cáp Xích kết hợp với chế độ Bát kỳ đã đem đất đai chia cho người Bát kỳ theo đầu người.

Hôn nhânSửa đổi

Trong dân chúngSửa đổi

Hiện nay, có nhiều người, thậm chí các học giả nhận định rằng, thời Thanh cấm việc kết thông gia giữa người Mãn và người Hán, chính là nói đến lệ "Mãn Hán bất thông hôn". Điều này xuất phát từ một Dụ chỉ của Từ Hi Thái hậu vào năm Quang Tự thứ 26 được ghi chép trong "Đức Tông Thực lục": "Mãn Hán thần dân... theo thông lệ cũ không được thông hôn. Nguyên nhân là lúc sơ kỳ nhập quan, phong tục tiếng nói, hoặc có nhiều thứ chưa rõ ràng, nên đã ban bố lệnh cấm. Nay lập tức... khai trừ thử cấm... chuẩn kết hôn lẫn nhau, không cần câu nệ"[chú thích 12].

Mặc dù vậy, các nhà sử học, nhà nghiên cứu liên tục tra khảo các tài liệu văn hiến sớm hơn nhưng hoàn toàn không tìm được bằng chứng cho "lệnh cấm" này trong luật lệ của nhà Thanh. Ngược lại, trong "Thanh sử cảo - Thế Tổ bản kỷ" đã ghi chép lại một dụ chỉ vào tháng 5 năm Thuận Trị thứ 8 (1651): "令满, 汉官民得相嫁娶 - Lệnh quan dân Mãn Hán phải cưới hỏi lẫn nhau".

Theo ghi chép trong "Vinh Hiến lục": "按国制, 皇后诸妃及凡满洲之正室皆不与汉人联姻 - Án theo quốc chế, Hoàng hậu chư Phi cùng với Chính thất của người Mãn Châu đều không cùng "dân nhân" quan hệ thông gia". Nói cách khác, chính thê của "Kỳ nhân" không thể là "Dân nhân", mà nạp thiếp các loại thì tùy ý.

Vì vậy, theo tất cả những nghiên cứu trước mắt, vốn không có lệnh cấm "Mãn - Hán bất thông hôn", mà chỉ có "Kỳ - Dân bất thông hôn". Cũng tức là trong việc kết hôn, "Không hỏi Mãn - Hán, chỉ hỏi Kỳ - Dân"[56]. Mặc dù vậy, những điều này luôn có một số ngoại lệ nhất định. Vào thời Thanh, Kỳ nhân và Dân nhân thông hôn có 2 loại phương thức đặc thù:

  1. Kỳ nam cưới Dân nữ làm thê hoặc thiếp, kết quả là Dân nữ nhập kỳ, cũng có khi sẽ đổi họ sang họ của người Mãn (Điển hình nhất là trường hợp của Thuần Huệ Hoàng quý phi).
  2. Kỳ nữ gả cho Dân nam, kết quả Kỳ nữ thoát ly Kỳ tịch.

Cả 2 loại thông hôn này, từ Thanh sơ đến Thanh mạt, đều rất thường thấy, có thể thấy được giới hạn trong việc hôn nhân này cũng không nghiêm khắc lắm.

Trong cung đìnhSửa đổi

Mặc cho lệ "Kỳ - Dân bất thông hôn" như trên, việc "Hán phi" xuất hiện trong cung đình là một việc không quá hiếm gặp. Hán phi ở đây chính là nói đến những phi tần vốn là "Dân nhân", không hề có hộ tịch Bát kỳ. Bởi theo quan điểm thời Thanh, Bát kỳ còn gọi là Bát kỳ Mãn Châu, tức người có hộ tịch Bát kỳ đều có thể xem là người Mãn Châu; vì vậy xưng hô "Hán phi" là dùng để chỉ người không có hộ tịch, không bao gồm những người thuộc vào Hán quân Bát kỳ.

Việc nạp "Hán phi" vào cung tương đối "thịnh hành" vào thời Thuận Trị, Khang HiCàn Long. Thời Thuận Trị, nổi bật nhất là trường hợp của Khác phi Thạch thị. Năm Thuận Trị thứ 5 (1648), Thuận Trị Đế liên tiếp hạ hai dụ chỉ về việc liên hôn Mãn - Hán (tức Kỳ - Dân), ý tứ là: "Quan Mãn Châu cưới con gái người Hán làm vợ đều báo lại. Còn người thường không cần báo", đặc biệt sau đó Thuận Trị Đế còn tự “thử nghiệm” mà tuyển Hán nữ nhập cung. Khi ấy, Thạch thị từ Loan Châu xứ Hà Bắc được chọn, vào cung phong Phi, sống tại Vĩnh Thọ cung, còn cho phép dùng quần áo người Hán. Điều này cho thấy một bộ mặt phong phú và cởi mở của người Thanh với người ngoại tộc, khác hẳn những gì đại đa số tưởng tượng.

Từ thời Khang Hi, vì quan niệm "môn đăng hộ đối", người Bát Kỳ và dân đen không liên hôn dần thành lệ bất thành văn, cho nên tình huống “quang minh chính đại” nghênh thú Hán phi triều Thanh cũng dần thu hẹp. Một ít hồ sơ trong cung cho thấy, Khang Hi Đế cùng Càn Long Đế, đã thông qua các quan viên địa phương ở Giang Nam mà mua về một số cô gái trẻ, đều con nhà nghèo hèn, vào cung dạy dỗ mà làm Cung nữ tử. Những cô gái ấy lớn lên, liền được mệnh cho Hoàng đế lâm hạnh, trở thành Hậu cung chủ vị. Nhưng do vấn đề về hồ sơ, cũng không rõ ràng xuất thân của các hậu cung chủ vị triều Khang Hi, theo suy đoán mà đại đa số nghi ngờ, thì “Hán phi” triều Khang Hi có Hi tần Trần thị hoặc Tương tần Cao thị, đều có thể là Cung nữ tử người Hán được lâm hạnh.

Trái lại, việc Càn Long Đế nạp Hán phi lại có khá nhiều hồ sơ rõ ràng. Năm Càn Long thứ 40 (1775), ngày 7 tháng 12, Phúc Long An thượng tấu cho Càn Long Đế có nội dung: "Nô tài Phúc Long An cẩn tấu. Ngày 18 tháng này phụng chỉ: Lâm Quý nhân nhập Nội vụ phủ kỳ đương. Khâm thử. Nô tài phụng chỉ, đem điều tra hộ khẩu nhà Lâm Quý nhân, nhập vào Hóa Tề quản lĩnh của Nội vụ phủ Tương Hoàng kỳ làm một người Kỳ thuộc, cùng với các Kỳ dân của kỳ ấy đều tạo kỳ đương"[chú thích 13].

Vị Lâm Quý nhân này tức là Cung tần Lâm thị, qua đây ta cũng thấy rõ vị Lâm thị này vốn là dân Hán bình thường được “giả mạo hồ sơ” mà làm người Bát Kỳ, thuộc Nội vụ phủ Thượng tam kỳ Bao y. Lại như năm Càn Long thứ 43 (1778), thân thích từ Dương Châu của Minh Quý nhân đi vào Bắc Kinh, tìm đến quan viên Nội vụ phủ, nói mình là “Anh trai của Minh Quý nhân, vì sinh hoạt khốn khó, nay đến mưu cầu chức quan”, vị Minh Quý nhân này chính là Phương phi Trần thị. Đây là những tiêu chuẩn cho khái niệm “Hán phi” mà mọi người thường nhắc đến.

Đến khi Càn Long Đế sắp qua đời, ông yêu cầu quan viên Nội vụ phủ sửa sang “ký lục” lại gia thế các vị Hán phi mà ông đã nạp từ đầu khi cai trị đến nay. Trong hồ sơ ấy có chỉ ra rõ:

Có thể thấy được, Càn Long Đế có ít nhất 5 vị “Hán phi” chắc chắn về xuất thân, trong đó có một vị đạt tới Hoàng quý phi, cũng xem là khó thấy

Như vậy, việc tuyển chọn con gái phía Nam, tìm mọi cách để đưa vào cung, bắt đầu từ triều Khang Hi đến tận triều Gia Khánh mới chấm dứt. Tuy nhiên, do "tác động nội bộ" mà "Hán phi" ngoại trừ Khác phi Thạch thị, còn lại đều "không tồn tại" về mặt chế độ, nhưng lại được "ngầm thừa nhận" tồn tại về mặt thực tế.

Giáo dụcSửa đổi

Trong dân chúngSửa đổi

Năm Thiên Mệnh thứ 6 (1621), Nỗ Nhĩ Cáp Xích ra lệnh: "Chuẩn cho tám người là Thác Y, Bác Bố Hắc, Tát Cáp Liên, Ô Ba Thái, Nhã Tinh A, Khoa Bối, Trát Hải và Hồn Đại trở thành Sư phó của Bát kỳ", yêu cầu họ "Chuyên tâm dạy dỗ môn khách học trò và thu nhận thêm đệ tử", bắt đầu cho việc đọc sách tiếp nhận giáo dục của con em Bát kỳ.

Năm Thiên Thông thứ 4 (1630), A Mẫn không giữ được thành thì bỏ lại bốn thành mà chạy, trước đó còn ra lệnh cho quân "đồ thành"[chú thích 14]. Hình ảnh này đối nghịch hoàn toàn với việc quân dân nhà Minh thà "ăn thịt người" cũng quyết cố thủ bảo vệ thành trong trận chiến trước với nhà Thanh. Điều này khiến cho Hoàng Thái Cực nhận ra được sự quan trọng của giáo dụ "trung quân", liền ra lệnh "Từ nay, phàm là con em Bát kỳ từ 8 đến 15 tuổi đều phải đọc sách", những người không tuân theo sẽ lấy danh nghĩa "quá nuông chiều" mà xư phạt cha mẹ, người giám hộ của kẻ đó, thậm chí cách chức. Chỉ dụ này đã mở ra thời kỳ "Toàn dân giáo dục bắt buộc" của người dân Bát kỳ. Về sau khi xác lập chế độ, triều đình vì để cổ vũ cho phong trào hiếu học, đã ban thưởng vải vóc cho những con em ham học, chịu đọc sách, thậm chí miễn trừ lao dịch. Từ đó, phong trào hiếu học này càng lúc càng đi lên.

Năm Thuận Trị đầu tiên (1644), sau khi nhập quan, triều đình bắt đầu thiết lập các thư viện dành cho con em Bát kỳ các gia đình đã theo quân nhập quan, lại tuyển thêm các giáo viên Mãn ChâuMông Cổ để dạy học ở các thư viện, mở ra chế độ "Quan học" ở triều Thanh. Tuy nhiên, "Quan học" chưa phải là toàn bộ nền giáo dục của nhà Thành, ngoài ra còn có "Tông học" và "Giác La học" dành cho Tông thất Ái Tân Giác La, lại có "Cảnh Sơn quan học" và "Hàm An cung quan học" dành cho con em Nội vụ phủ Tam kỳ và những nhân tài xuất sắc khác trong Bát kỳ.

Khang Hi ĐếUng Chính Đế lần lượt mở "Cảnh Sơn quan học" và "Hàm An cung quan học" cho con em Nội vụ phủ, phân biệt là 382 vị trí và 90 vị trí, không chỉ được các giáo viên ưu tú trong triều đình giảng dạy mà còn được "bao có công việc" sau khi học hành xong, thông qua khảo hạch mà nhậm các chức vụ, công việc trong triều đình, Nội vụ phủ. Cảnh Sơn quan học có chế độ nhập học tương tự với Quan học, đều là nhập học từ 8-15 tuổi, còn Hàm An cung quan học thì nhập học từ 15-20 tuổi, tương tự với việc học xong tiểu học thì lên trung học hiện nay. Cuối thời Ung Chính, cân nhắc đến vị trí đặc thù của Hàm An cung quan học, Ung Chính Đế đặc biệt hạ chỉ cấp cho mỗi kỳ 10 danh ngạch nhập học, không yêu cầu xuất thân, chỉ cần có tài, được tuyển chọn thì đều sẽ được triều đình dốc lòng bồi dưỡng. Ngay cả Hòa Thân nổi tiếng một thời chính là đã dùng thân phận Tú tài Chính Hồng kỳ thì vào Hàm An cung quan học.

Năm Càn Long thứ 3 (1738), Đại thần chịu trách nhiệm quản lý Quốc tử giám là Tôn Gia Cam tấu lên Càn Long Đế, về việc định ra ba năm đầu của việc học là ba năm "cơ sở", học sinh chủ yếu các kiến thức cơ sở, trọng điểm tập trung vào giảng giải và kiểm tra kinh thư, sau ba năm lại căn cứ vào tình hình thực tế của học sinh mà phân ra Hán văn quán, Mãn Châu quán hay Mông Cổ quán tiếp tục được bồi dưỡng chuyên nghiệp.

Thời gian học tập và nghỉ ngơi trong Quan học cũng thay đổi theo mùa hạ và mùa đông, mùa hạ bắt đầu từ tiết Đoan Ngọ, mỗi ngày giờ Mẹo (5 giờ sáng) đến trường, giờ Mùi (1 giờ chiều) tán học, mùa thu bắt đầu từ Trung Thu, mỗi ngày giờ Thìn (7 giờ sáng) đến trường, giờ Thân (3 giờ chiều) tan học.

Trong các Vương phủSửa đổi

Ngoại trừ Quan học dành cho con em Bát kỳ thông thường, trong nội bộ gia tộc Ái Tân Giác La cũng thiết lập "Tông học" cho con em Tông thất và "Giác La học" cho con em Giác La. Về cơ chế không khác mấy so với Quan học. Tuy nhiên, thực tế thì Tông học thường chỉ có con em của "Nhàn tản Tông thất" đến học, toàn bộ học phí đều do triều đình cung cấp. Còn lại trong các Vương phủ, hầu hết tất cả đều lập "Gia thục" (có thể xem là một trường học nhỏ tại nhà) hoặc mời thầy giáo về dạy. Theo nhà nghiên cứu Quất Huyền Nhã, hiện nay chưa thấy hồ sơ nhắc đến việc các Vương phủ đưa con em đến Tông học để học tập.

Trước khi chính thức đi học, thường thì các trẻ con trong phủ sẽ được dạy vỡ lòng trước, nhận biết một số mặt chữ. Việc dạy vỡ lòng này hầu hết đều do các nữ trưởng bối trong nhà đảm nhiệm, như mẹ, bà nội hoặc cô; cũng có lúc là giao cho anh trai hoặc chị gái dạy; thậm chí thời Vãn Thanh còn có trường hợp do Thái giám dạy.

Tương tự như Quan học, đến khoảng năm 8 tuổi, tất cả trẻ con trong Vương phủ sẽ chính thức đi học. Nơi học tập ở mỗi vương phủ đều được đặt ở Thư phòng hoặc Tiểu thư phòng trong phủ, trên giấy tờ thì gọi là "Gia thục". Thời gian học trong Gia thục không được quy định chung mà sẽ tùy tình hình mỗi phủ sẽ có những quy định khác nhau, nhưng thường đều là buổi sáng học đến giữa trưa, sau đó lại học thêm một phần vào buổi chiều. Như Thuần vương phủ học từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa, lại tiếp tục học từ 1 giờ chiều đến 4 giờ chiều. Không như chế độ có ngày nghỉ trong tuần hiện nay, ngày nghỉ trong các vương phủ chỉ rơi vào những ngày lễ như Thanh minh, Đoan ngọ, Trung thu,... Có lúc được nghỉ cả ngày, có lúc chỉ được nghỉ nửa ngày. Ngoài ra còn có nghỉ đông, thường đều bắt đầu vào khoảng trước sau ngày 20 tháng chạp và kết thúc vào trước sau ngày 20 tháng giêng năm sau. Tuy nhiên, trong các kỳ nghỉ đều sẽ có "bài tập về nhà". Mặc dù vậy, tùy theo từng phủ mà có ngày nghỉ thường nhật, có phủ được nghỉ vào ngày 5 (tức ngày 5, 15, 25), có phủ được nghỉ vào ngày 10 (10, 20, 30).

Quá trình đi học mỗi ngày thường là các thầy dạy sẽ đến sớm một ít, sau đó các chủ nhân nhỏ sẽ đến. Sau khi vào cửa, các học sinh sẽ phải chắp tay thi lễ với bài vị Khổng Tử, sau đó lại thi lễ với thầy dạy, sau đó mới bắt đầu học. Đến giữa trưa thì nghỉ ngơi ăn uống, thức ăn của các thầy dạy đều do vương phủ cung cấp, sau khi nghỉ ngơi thì bắt đầu giờ học buổi chiều.

Về thầy dạy, bình thường đều chia thành "Hán văn Lão sư" và "Mãn văn Am đạt". Đôi khi "Mãn văn Am đạt" và "Mãn văn Lão sư" là 2 người khác nhau, nên thông thường sẽ có từ 2 đến 3 thầy dạy. Hán văn Lão sư bình thường đều là người nổi danh trong xã hội, chính là các văn học danh sĩ đương thời, nhưng đa số không phải quan liêu, mà đều là do các quan viên có quan hệ tốt đề cử đến. Mãn văn Lão sư chính là dạy Mãn văn cùng Mãn ngữ, còn Mãn văn Am đạt dạy cưỡi ngựa bắn cung. Ở một số phủ, Mãn văn Lão sư và Mãn văn Am đạt là do cùng một người kiêm nhiệm, một số phủ khác thì là 2 người. Nhưng bất kể là Mãn văn Lão sư hay Mãn văn Am đạt, bình thường đều là người thân thuộc của phủ hoặc thuộc nhân.

Về nội dung học tập, mỗi thầy dạy sẽ có những mục phụ trách riêng.

  • Do Hán văn Lão sư dạy sẽ có:
  1. Chữ (Tự): nhận chữ, luyện chữ (bao gồm tiểu Khải, đại tự, tập viết theo mẫu chữ,….)
  2. Kinh thư: chính là Tứ thư Ngũ kinh
  3. Tiểu học: từ lý giải các “Tự” đến các loại điển cố, điển tích.
  4. Sách sử: như Thông Giám, Tiền tứ sử,…
  5. Văn nghệ: như thi từ, câu đối
  6. Đặc thù: tùy từng phủ, có phủ sẽ học về Thánh huấn các loại
  7. Thư tịch cho trẻ con: có phủ chỉ nhập học 1 quyển rồi chuyển sang kinh thư rồi
  • Do Mãn văn Lão sư dạy sẽ có:
  1. Mãn văn: nhận, đọc, viết
  2. Phiên dịch: Hán dịch sang Mãn, Mãn dịch sang Hán
  3. Giao tiếp bằng tiếng Mãn
  • Do Mãn văn Am đạt dạy sẽ có:
  1. Cưỡi ngựa
  2. Tập võ

Ngoài ra, tùy thói quen mỗi phủ mà nội dung dạy cũng bất đồng, thời Vãn Thanh còn có phủ dạy Anh văn. Mãn văn Am đạt chủ yếu là dạy “Khóa thể dục”, cưỡi ngựa bắn tên, thậm chí là mang các chủ nhân nhỏ ra ngoài leo núi. Tuy nhiên, chương trình học trong mỗi phủ cũng không giống nhau. Có phủ mỗi ngày đều sẽ có giờ học Mãn ngữ văn, nhưng thể dục thì lâu lâu mới có một buổi. Có phủ lại mỗi ngày đều có nửa canh giờ để học kéo cung,...

Tương tự như việc học hiện nay, việc học trong vương phủ cũng có việc kiểm tra. Trong ghi chép của Phổ Kiệt có nhắc đến, chiều nào sau khi tan học, ông cũng phải đi thỉnh an mẫu thân. Sau đó thì nộp công khóa trên lớp lên, học là đọc bài học thuộc lòng. Trên công khóa cũng sẽ có ngoắc ngoắc xoa xoa (ý chỉ các đường đánh dấu, gạch chéo) để chỉ đúng sai, Phổ Kiệt nói: “Đọc không trôi chảy, liền sẽ nhận được phê bình không chịu học bài cho tốt, thậm chí có thể bị lớn tiếng trách cứ. Nếu vòng tròn đỏ quá ít, cũng sẽ bị nghiêm khắc răng dạy” (vòng đỏ chính là dấu √ thời bây giờ).

Việc đi học sẽ kéo dài trong nhiều năm, thời gian hoàn toàn chấm dứt tùy thuộc vào từng phủ, từng người. Nữ sẽ kéo dài đến khi đính hôn hoặc kết hôn thì chấm dứt, nam thì thường chấm dứt khi đến tuổi kết hôn hoặc bắt đầu làm việc. Nhà Thanh hầu hết đều đính hôn vào khoảng 15 tuổi, trễ hơn thì khoảng 17-18 tuổi.

Trong quá trình đi học, ngoại trừ các chủ nhân là đối tượng chính, còn có các "thư đồng" thường được nhắc đến trong các tác phẩm văn hóa giải trí. Tuy nhiên, ghi chép của nhà Thanh về "Thư đồng" tương đối hỗn loạn. Như Duệ vương phủ không hề có thư đồng, các A ca đi học phải tự mình cầm cặp sách. Về phần Thuần vương phủ mặc dù nói có 2 thư đồng trong Thư phòng, tuy nhiên lại là "lão thư đồng", khác biệt rất lớn so với hình tượng "Thư đồng" là "bạn học cùng đọc sách" trong suy nghĩ nhiều người hiện nay. Ở một số phủ khác thì Thái giám đắc lực sẽ đảm nhiệm luôn phần thư đồng, một số lại là do con em hạ nhân trong phủ đảm nhiệm. Tùy theo mỗi phủ mà có những tình huống khác nhau.

Khác với suy nghĩ của nhiều người rằng "nhà Thanh trọng nam khinh nữ", các Cách cách trong các vương phủ cũng được phép đi học như các A ca, thậm chí như Thuần Vương phủ thì tất cả Cách cách A ca đều học chung một nơi là Nhâm Chân đường, một số phủ khác thì Cách cách sẽ có nơi học riêng. Nhà Thanh hoàn toàn không có quan niệm "Nữ tử không tài chính là đức", bắt buộc phụ nữ chỉ được học các loại sách như "Nữ huấn" hoặc chỉ học may vá các loại. Những thứ như "Nữ huấn" đều là do những tác phẩm phóng tác trên đề tài Thanh cung khuếch đại lên gây lầm tưởng cho nhiều người. Mặc dù phụ nữ trong Vương phủ nhà Thanh cũng sẽ theo "Tam tòng tứ đức", cũng sẽ học may vá, nhưng hoàn toàn không phải chú trọng quá nhiều, bởi thân phận của họ đã định sẵn họ sẽ không tốn quá nhiều thời gian trong các công việc này. Thậm chí, thông qua lời kể của hậu duệ cua Duệ vương phủ, các Cách cách trong phủ thậm chí có người hoàn toàn không có khái niệm "Nữ công"

Ngược với suy nghĩ của nhiều người hiện đại, trình độ văn hóa của Tông nữ nhà Thanh tương đối cao. Từ Thanh sơ, liền đã có Tông thất nữ Thi nhân. Như tác giả của “Lan Hiên thi” là Lan Hiên chủ nhân (兰轩主人) – cháu nội của Thư Nhĩ Cáp Tề, tác giả của “Mộng Hoa Các thi” là Tương Sầm (湘岑) – tằng tôn nữ của Doãn Kỳ, còn có Huyện quân – cháu nội của Nhạc Lạc, và con gái của Tông thất là Dưỡng Dịch Trai Học Nhân (mẹ chồng của Lan Hiên chủ nhân). Đến Vãn Thanh, ý thức đối với giáo dục nữ tính bắt đầu hình thành trong xã hồi, bắt đầu xuất hiện “Nữ học”, trong đó phần lớn đều là do con gái hoặc vợ cả của các Tông thất đứng ra lập nên. Thập chí có cả các nàng tự mình dạy học[57].

Quân độiSửa đổi

Đóng quânSửa đổi

Cấm lữ Bát kỳSửa đổi

Nhà Thanh đóng đô ở Bắc Kinh, đây cũng là đại bản doanh của Bát kỳ. Quân đội Bát kỳ đóng giữ ở Kinh sư được gọi là "Cấm lữ Bát kỳ", "Kinh lữ Bát kỳ" hoặc "Kinh kỳ"[58].

Nhà Thanh thực hiện chế độ chia dân cư theo từng thành để sinh sống, án theo quy hoạch đại bản doanh đem Bát kỳ chia làm 2 là Tả dực (cánh trái, gồm Tương Hoàng kỳ, Chính Bạch kỳ, Tương Bạch kỳ, Chính Lam kỳ) và Hữu dực (cánh phải, Chính Hoàng kỳ, Chính Hồng kỳ, Tương Hồng kỳ, Tương Lam kỳ) để đóng quân trong nội thành Bắc Kinh, Hoàng thành và các địa phương bên ngoài.

 
Phân bố quân trú phòng Kinh thành

Quân cánh trái đóng ở thành Đông Bắc, lần lượt phân biệt đóng quân trong[59]:

Quân cánh phải đóng ở thành Tây Bắc, lần lượt phân biệt đóng quân trong[59]:

Từ đây về sau, vị trí trú phòng của Bát kỳ trong thành Bắc Kinh không hề xảy ra biến hóa, dù cho càng về sau, tính chất "Đại bản doanh Bát kỳ" của thành Bắc Kinh không còn như trước[60].

Quan binh trong Bát kỳ, về mặt hành chính đều do Đô thống Nha môn của Kỳ đó quản lý, có chiến sự thì xuất binh, không có chiến sự thì lập tức rút về Kinh thành, là lực lượng cơ bản của quân đội nhà Thanh. Binh sĩ của Cấm lữ Bát kỳ vào thời Thuận Trị là 8 vạn, thời Khang Hi là 10 vạn, đến thời Thanh Mạt, có chức quan là 6680 người, binh lính là hơn 12 vạn[61].

Thể chế của "Cấm lữ Bát kỳ" là dựa theo binh chủng khác nhau mà thành lập các doanh khác nhau, lần lượt là Thân quân, Kiêu kỵ (Mã giáp), Tiền phong, Hộ quân, Bộ quân (Bộ giáp)[62]. Trong đó, Kiêu kị doanh, Hộ quân doanh, và Bộ quân doanh đều án theo từng Kỳ mà thiết lập; Tiền phong doanh án theo Tả - Hữu dực để thiết lập; Hộ quân doanh và Tiền phong doanh là Cảnh vệ cung cấm, lúc Hoàng đế ra ngoài thì làm tùy tùng đi theo, là thành phần tinh nhuệ trong quân đội Bát kỳ[62].

Sau đó lại từ các Doanh trên tuyển chọn ra Thần cơ doanh, từ trong Tiền phong doanh tuyển chọn ra Kiện duệ doanh, từ Hán Quân của Kiêu kị doanh tuyển ra Thương doanh, Pháo doanh các loại, từ quân Mãn - Mông có luyện tập hỏa khí tuyển chọn ra Hỏa khí doanh, chính là lính đặc chủng[63].

Từ thời Khang Hi, quân Bát kỳ từng bước di cư ra khỏi thành Bắc Kinh, nguyên nhân là vì sự xuất hiện của Viên Minh viên, liền phải điều quan viên Bát kỳ trong Kinh thành đến nơi này để bảo vệ. Sau khi Viên Minh viên hoàn thành, các đời Hoàng đế thường xuyên ở lại đây vài tháng, vì vậy trên thực tế, Viên Minh viên là một tòa Hoàng cung thứ hai. Vì để bảo vệ sự an toàn của Viên Minh Viên, vào năm Ung Chính thứ 2 (1724), triều đình đã lên kế hoạch thiết lập Hộ quân doanh ở đây:

Trú phòng Bát kỳSửa đổi

Kinh sư Trú phòngSửa đổi

Quân trú phòng Kinh kỳ chia làm nhiều loại, đều là theo nơi đóng quân, như Thuận Nghĩa, Xương Bình, Tam Hà hay Lương Hương, đều là những địa phương ngay gần thành Bắc Kinh. Trên thực tế, đội quân này là hộ vệ bên ngoài của Kinh thành. Những nơi đóng giữ xa hơn như Bảo Định, Thái Nguyên, Thương Châu, Đức Châu, đều là những con đường giao thông quan trọng từ Bắc Kinh đến các địa phương khác.

Địa phương Trú phòngSửa đổi
 
Nằm ở phía Tây thành Hàng Châu, là thành của Doanh trú phòng ở giữa Tiễn Đường môn và Dũng Kim môn, bắt đầu xây dựng vào năm Thuận Trị thứ 5 (1648)

Để có thể khống chế tốt lãnh thổ rộng lớn, nhà Thanh phân một bộ phận lớn quân Bát kỳ đến các địa phương đóng giữ, xưng là "Trú phòng Bát kỳ"[64]. Ban đầu, để đề phòng nhà Nam Minh và các thế lực phản Thanh phục Minh, nhà Thanh chủ yếu tập trung bố trí lực lượng phòng thủ ở phía Nam, đặc biệt là Đông Nam. Về sau, đến nửa sau những năm Khang Hi, thế lực Chuẩn Cát Nhĩ quật khởi, vì vậy Khang Hi Đế bắt đầu tăng cường lực lượng phòng thủ ở phía Bắc. Chế độ Trú phòng Bát kỳ bắt đầu từ triều Thuận Trị, mở rộng và phát triển trong hai triều Khang - Ung, đến thời Càn Long thì hình thành định chế[65].

Giữa những năm Thuận Trị, quân Bát kỳ Trú phòng ở các địa phương chỉ vẻn vẹn hơn 15 ngàn quân, đến thời Khang - Ung thì dần tăng lên hơn 9 vạn quân, đến Thanh trung kỳ thì đạt hơn 10 vạn, cũng từ đó mà binh ngạch của Bát kỳ Trú phòng về cơ bản ngang hàng với Kinh kỳ, kéo dài đến tận thời Thanh mạt[65]. Đến thời Khang - Càn, nơi trú phòng của quân Bát kỳ ở Mãn Châu tăng từ 15 lên 44 nơi, tại các tỉnh khác thì tăng từ 9 lên 20 nơi. Trong những năm Càn Long, còn thiết lập thêm 8 nơi đóng quân ở Tân Cương[65]. Trong đó, binh lực tại Đông Bắc chiếm gần một nửa binh lực trú phòng, số nơi trú phòng cũng chiếm hơn phân nửa[65]. Ngược lại, các địa phương khác chỉ có từ 1 đến 3 nơi đóng quân ở mỗi Tỉnh, trong đó phía bắc Trường Giang tương đối nhiều, còn lại Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Tây, Quý Châu đều không bố trí trú phòng[66].

Việc đóng giữ trong nội địa chủ yếu do hơn 60 vạn Lục kỳ binh đảm nhiệm[66], Bát kỳ Trú phòng chủ yếu đảm nhiệm vai trò giám sát. Quân Bát kỳ đóng giữ hơn 70 nơi trên toàn lãnh thổ Trung Quốc, đều là những thành trấn quan trọng hoặc những nơi thủy bộ trọng yếu. Căn cứ theo nhu yếu mà thiết lập Trú phòng Tướng quân, Đô thống, Phó Đô thống hoặc chỉ thiết lập Thành thủ Úy, Phòng thủ Úy làm thống lĩnh. Trú phòng Bát kỳ là lực lượng quan trọng của nhà Thanh để khống chế toàn lãnh thổ[66]. Ngoại trừ khu vực Đông Bắc, ở tất cả các địa phương trú phòng nhà Thanh cũng áp dụng chế độ phân chia "Kỳ nhân" và "Dân nhân", vừa để dễ quản lý, vừa để giảm khả năng bị người Hán ở địa phương đồng hóa[67].

Ung Chính Đế từng nói, nơi Trú phòng chỉ là nơi đi công tác, Kinh sư mới là quê cha đất tổ[68]. Binh sĩ Trú phòng ban đầu đều là từ các Tá lĩnh Kinh kỳ phái ra, sau đó lại từ những Tá lĩnh khác nhau này, tại nơi Trú phòng hình thành nên những Tá lĩnh mới, tuy nhiên hộ tịch của họ vẫn nằm trong Tá lĩnh ban đầu. Tuy nhiên, dần dần do tính cố định hóa của chế độ, hộ tịch của người Bát kỳ trú phòng mặc dù vẫn thuộc nha môn Tá lĩnh cũ, nhưng quan hệ lại càng lúc càng nhạt đi, lại dần hình thành nên một quần thể mới ở đất trú phòng[66]. Việc thực thi chế độ Bát kỳ trú phòng đã kiến cho dân cư Bát kỳ phân tán thành các tụ điểm dân cư nhỏ, rải khắp cả nước, nam đến Quảng Châu, bắc đến Ái Hồn, tây đến Y Lê, cuối cùng tập trung đông nhất vẫn là xung quanh kinh thành[66].

Trú phòng Bát kỳ ở địa phương
Phân loại Địa phương Thời gian

thiết lập

Tướng lĩnh Binh lực Nguyên nhân bố phòng
Trực tỉnh

trú phòng

Giang Ninh 1645 1 Tướng quân

(Giang Ninh Tướng quân)

4000 quân

Đều là Mãn - Mông Bát kỳ, không có Hán Quân

Giang Ninh, tức Nam Kinh là cố đô của 6 triều đại thời Nam Bắc triều, cũng là điểm giao thông quan trọng của hai đường thủy bộ.
Hàng Châu 1645 1 Tướng quân

(Hàng Châu Tướng quân)

4000 quân

Chủ yếu là Mãn - Mông, một ít Hán Quân

Hàng Châu là trọng trấn phía Nam, hơn nữa thế lực của Nam Minh vẫn còn sót lại ở đây, vì vậy bố phòng để đảm bảo điều vận lương thực ở phía Nam.
Phúc Châu 1680 1 Tướng quân

(Phúc Châu Tướng quân)

1000 quân

Đều là Hán Quân Bát kỳ, về sau có tăng thêm

Bộ hạ cũ của Cảnh thị - một thế lực trong Tam phiên. Bộ hạ cũ của Cảnh Tinh Tinh sau khi đầu hàng được đãi[chú thích 15] vào Hán Quân Thượng Tam kỳ.
Quảng Châu 1681 1 Tướng quân

(Quảng Châu Tướng quân)

3000 quân đều thuộc Hán Quân Bát kỳ:
  • 1125 quân thuộc Thượng Tam kỳ
  • 1875 quân thuộc Hạ Ngũ kỳ
Bộ hạ của của Thượng thị - một thế lực trong Tam phiên. Bộ hạ cũ của Thượng Khả Hỉ sau khi đầu hàng được đãi vào Hán Quân Thượng Tam kỳ.
Kinh Châu 1683 1 Tướng quân

(Kinh Châu Tướng quân)

4000 quân

Đều là Mãn - Mông Bát kỳ, không có Hán Quân

Sau khi bình định Loạn Tam Phiên, Khang Hi Đế nhận ra tầm quan trọng về mặt địa lý của Kinh Châu
Thành Đô 1738 1 Tướng quân

(Thành Đô Tướng quân)

1600 quân

Về sau có tăng thêm quân

Ban đầu là một chi nhánh của Trú phong Kinh Châu, về sau vì loạn Đại - Tiểu Kim Xuyên mà mở rộng
Khai Phong 1718 1 Thành thủ Úy 800 quân

Đều là Mãn - Mông Bát kỳ

Hà Nam được mệnh danh là "Trung tâm của thiên hạ", "Trái tim của Cửu châu", thuận tiện giao thông đến các tỉnh khác.
Thanh Châu 1729 Ban đầu là Phó Đô thống

Sau thăng thành Tướng quân

Sau lại hàng Phó Đô thống

(Thanh Châu Phó Đô thống)

2000 quân

Đều là Mãn Châu Bát kỳ

Sơn Đông luôn được xem là một cánh tay của Kinh sư
Đông Bắc

trú phòng

Thịnh Kinh 1664 - 1 Tướng quân

- 4 Phó Đô thống

- 1 Phó Đô thống hàm Tổng quản

Thường giữ ở mức 5000 quân

Thời Thanh mạt đạt đến 20000 quân

Là vùng đất long hưng cũng là Kinh sư thứ hai của nhà Thanh. Vì vậy nơi đây được bố trí quân lực đông nhất ba tỉnh Đông Bắc.
Cát Lâm 1676 1 Tướng quân

(Cát Lâm Tướng quân)

4000 quân phòng ngự Cố hương của Mãn Châu, vẫn luôn được coi là "Vùng đất cội nguồn"
Hắc Long Giang 1683 1 Tướng quân

(Hắc Long Giang Tướng quân)

2000 quân phòng ngự Cố hương của Mãn Châu, vẫn luôn được coi là "Vùng đất cội nguồn"
Tây Bắc &

Biên cương

trú phòng

Ninh Hạ 1725 1 Tướng quân

(Ninh Hạ Tướng quân)

3400 quân

Về sau có giảm bớt

Bởi vì yêu cầu đối với Hải quân, Trú phòng Ninh Hạ trở thành định chế
Tây An 1645 1 Tướng quân

(Tây An Tướng quân)

4000 quân Mãn - Mông Bát kỳ

3000 quân Hán Quân Bát kỳ

Tây An là nơi đóng quân và tích trữ lương thảo để chuẩn bị tấn công các địa phương như Hồ Quảng, Tứ Xuyên, cũng là để chấn nhiếp các thế lực phản Thanh ở Sơn Tây, Thiểm Tây.
Nhiệt Hà Sau 1723 1 Đô thống

(Nhiệt Hà Đô thống)

3600 quân Mãn - Mông Bát kỳ: Ba phía Nhiệt Hà đều tiếp giáp Mông Cổ, là nơi có vị trí địa lý quan trọng.
Sát Cáp Nhĩ 1761 1 Đô thống

(Sát Cáp Nhĩ Đô thống)

1000 quân Sát Cáp Nhĩ Bát kỳ[chú thích 16] Bản thân Sát Cáp Nhĩ bộ là hậu duệ của Lâm Đan hãn, sau khi con trai của Lâm Đan hãn là Ngạch Triết đầu hàng, bộ nhân được phân thành Sát Cáp Nhĩ Bát kỳ
Tuy Viễn 1761 1 Tướng quân

(Tuy Viễn thành Tướng quân)

4100 quân Mông Cổ Bát kỳ Tuy Viễn thành vốn là nơi nhà Thanh đặt một thành trì trú phòng ngay sát Thổ Mặc Đặc bộ để giám thị bộ lạc này và cả vùng Tây Bắc.
Tân Cương 1762 - 1 Tướng quân

(Y Lê Tướng quân)

- 1 Đô thống

(Ô Lỗ Mộc Tề Đô thống)

6400 quân Mãn - Mông Bát kỳ

500 quân Đạt Thập Đạt Ngõa Ách Lỗ Đặc

1000 quân Sách Luân Hắc Long Giang

1000 quân Mông Cổ Sát Cáp Nhĩ

1000 quân Đông Bắc Tích Bá

2300 quân Ách Lỗ Đặc

600 quân Sa Tất Nạp Nhĩ

3000 quân Lục doanh

Sau khi bình loạn Chuẩn Cát Nhĩ và Đại - Tiểu Hòa Trác, Triều đình thiết lập vị trí Y Lê Tướng quân, trực tiếp thống trị Tân Cương.

Biên chếSửa đổi

Quân hàmSửa đổi

Năm Thuận Trị thứ 11 (1660), Thuận Trị Đế ra chỉ dụ, định ra Hán văn của Cố Sơn Ngạch ChânĐô thống, Mai Lặc Chương KinhPhó Đô thống, Giáp Lạt Chương KinhTham lĩnh, Ngưu lục Chương KinhTá lĩnh. Vì vậy, các tầng cơ cấu của Bát kỳ lần lượt là Ngưu lục (Tá lĩnh) - Giáp Lạt (Tham lĩnh) - Cố Sơn (Đô thống).

Trong Bát kỳ ở Kinh sư, ở mỗi kỳ thiết lập 1 Đô thống - hàm Tòng Nhất phẩm, 2 Phó Đô thống - hàm Chính Nhị phẩm, ở dưới lần lượt thiết lập Tham lĩnh, Tá lĩnh, Hiểu kỳ giáo và Ấn vụ Tham lĩnh, Ấn vụ Chương Kinh, Bút thiếp thức các loại. Ngoài ra ở mỗi Kỳ còn nhiều quan viên Hành tẩu, Tán trật quan, số lượng vô hạn định.

Phẩm hàm và số lượng Chức vụ
Chức vụ Bát kỳ Số lượng Phẩm hàm Ghi chú
1 kỳ Tổng
Đô thống 1 8 24 Tòng Nhất phẩm Trước khi nhập quan, Mãn ngữ xưng là "Cố Sơn Ngạch Chân". Đến năm 1723, Ung Chính đổi thành "Cố Sơn Ngang Bang" (固山昂邦, tiếng Mãn: ᡤᡡᠰᠠ ᠪᡝ
ᡴᠠᡩᠠᠯᠠᡵᠠ
ᠠᠮᠪᠠᠨ
, Möllendorff: gūsa be kadalara amban).

Quân Bát kỳ đóng ở các tỉnh thường trên 2000 người, đứng đầu là Tướng quân, tổng cộng 13 vị, đều Tòng Nhất phẩm.

Chức Đô thống và Tướng quân trú phòng đều do các Vương công Tông thất hoặc các đại thần thân tín của Hoàng đế kiêm nhiệm. Thông thường, Đô thống và Tướng quân không cùng được thiết lập, nếu đã đặt Tướng quân thì ở dưới sẽ là Phó Đô thống.

Phó Đô thống 2 16 48 Chính Nhị phẩm Trước khi nhập quan, Mãn ngữ xưng là "Mai Lặc Ngạch Chân" hay "Mai Lặc Chương Kinh".

Là chức quan có nhiệm vụ giúp đỡ công việc cho Đô thống

Tham lĩnh Mãn Châu 5 40 96 Chính Tam phẩm Ban đầu, Mãn ngữ xưng là "Giáp Lạt Ngạch Chân" hay "Giáp Lạt Chương Kinh (甲喇章京, tiếng Mãn: ᠵᠠᠯᠠᠨ ᡳ
ᠵᠠᠩᡤᡳᠨ
, Möllendorff: jalan i janggin). Nhiệm vụ chưởng quản các trang bị chiến đấu, binh tịch, tranh tụng, hộ khẩu, điền trạch, .... của mỗi Kỳ. Dưới Tham lĩnh là Tá lĩnh, số lượng không đồng nhất, thông thường là 5.

Ngoại phiên Mông Cổ còn có một chức vụ là Trát Lan (參領, tiếng Mông Cổ: ᠵᠠᠯᠠᠨ, chữ Mông Cổ: Залан, chuyển tả: ǰalan)

Mông Cổ 2 16
Hán Quân 5 40
Phó Tham lĩnh Mãn Châu 5 40 96 Chính Tứ phẩm Dưới mỗi Tham lĩnh thiết lập 1 Phó Tham lĩnh
Mông Cổ 2 16
Hán Quân 5 40
Tá lĩnh Mãn Châu 681 1151 Chính Tứ phẩm Đô thống, Phó Đô thống đều không thế tập, do đích thân Hoàng đế định ra. Tham lĩnh cũng không thế tập, là chọn từ trong Kỳ để đảm nhậm. Riêng Tá lĩnh phần lớn đều là thế tập, như Huân cựu Tá lĩnh, Thế quản Tá lĩnh, cũng có một phần không phải thế tập như Công trung Tá lĩnh.
Mông Cổ 204
Hán Quân 266
Hiểu kỵ giáo Mãn Châu 681 1151 Chính Lục phẩm Dưới mỗi Tá lĩnh thiết lập 1 Hiểu kỵ giáo
Mông Cổ 204
Hán Quân 266
Ấn vụ Tham lĩnh Mãn Châu 2 16 40 Còn được xưng là "Hiệp lý sự vụ Tham lĩnh" hoặc "Ấn phòng Tham lĩnh".

Chịu trách nhiệm các công việc như trình Tấu chương, quản lý hồ sơ, ấn vụ,...

Mông Cổ 1 8
Hán Quân 2 16
Ấn vụ Chương kinh Mãn Châu 8 64 144 Còn được xưng là "Hiệp lý sự vụ Chương kinh" hoặc "Ấn phòng Chương kinh".

Đều từ các Thế chức, Tá lĩnh, Kiêu kỵ giáo của bản kỳ mà chọn người kiêm nhiệm.

Chịu trách nhiệm tương tự Ấn vụ Tham lĩnh.

Mông Cổ 4 24
Hán Quân 6 36
Bút thiếp thức Mãn Châu 8 64 144
Mông Cổ 4 24
Hán Quân 6 36

Các chức vụSửa đổi

Hệ thống các Chức vụ trong Bát kỳ
Chức vụ Phẩm cấp Mãn ngữ Địa vị Chức trách
Đô thống Tòng Nhất phẩm Cố Sơn Ngạch Chân, 「固山額真」

Cố Sơn Ngang Bang, 「固山昂邦」

Là chức vụ tối cao ở mỗi Kỳ Chấp chưởng Hộ khẩu, giáo dưỡng, thừa tập quan tước, huấn luyện quân sự ở mỗi Kỳ.
Phó Đô thống Chính Nhị phẩm Mai Lặc Ngạch Chân, 「梅勒额真 」

Mai Lặc Chương Kinh, 「梅勒章京」

Ở một số địa phương, Phó Đô thống là người đứng đầu quân trú phòng (như Thanh Châu) Trấn thủ những nơi hiểm yếu, ổn định quân dân, quản lý việc xử phạt, rèn luyện võ bị
Hiệp lĩnh Chính Tam phẩm Ở Đông Bắc, Hiệp lĩnh là người đứng đầu quân đồn trú (như Cát Lâm Hồn Xuân, Tam Tính, Lạp Lâm) Là Thế chức Phụ trách việc quân sự và chính trị.
Tham lĩnh Chính Tam phẩm Giáp Lạt Ngạch Chân, 「甲喇额真」

Giáp Lạt Chương Kinh, 「甲喇章京」

Đồn trú ở Kinh sư Chưởng quản sự vụ của Thượng Tam kỳ Bao y, biên thẩm danh sách nhân khẩu, phân phát tiền lương cùng tiền cấp dưỡng cho quan binh, tổ chức các kỳ kiểm tra sát hạch văn võ, tuyền chọn Tam kỳ Bao y mặc giáp, treo biển "Hiền hiếu tiết nghĩa", tra xét Thế chức phả hệ, điều tra và cấm người chạy trốn [chú thích 17]. Ngoài ra còn có huấn luyện thao diễn, phân công trực ban, ...
Thành thủ Úy Chính Tam phẩm Thuộc quản lý của Tướng quân hoặc Phó Đô thống trú phòng.

Cũng có khi là người đứng đầu quân Trú phòng (như Bảo Định, Thương Châu, Thái Nguyên, Khai Phong)

Phụ trách phòng vệ ở các điểm trọng yếu của các Phủ, Châu, chưởng quản sự vụ quân sự và chính trị của doanh trại trú phòng, rèn luyện võ bị, ổn định địa phương.
Tá lĩnh Chính Tứ phẩm Ngưu lục Ngạch Chân, 「牛录额真」

Ngưu lục Chương Kinh,「牛录章京」

Chịu sư quản lý của Tham lĩnh nếu đóng ở Kinh sư, của Hiệp lĩnh nếu đóng ở các nơi trú phòng. Lo về vấn đề hộ khẩu, công việc và thu nhập của những hộ gia đình có trong Ngưu lục mà mình quản lý.
Lĩnh thôi Bạt thập khố,「拨什库」 Dưới mỗi Tá lĩnh đều có Lĩnh thôi Phụ trách hồ sơ cùng với chi lĩnh lương bổng.
Kiêu kỵ giáo Chính Lục phẩm Phân đắc Bạt thập khố,「 分得拨什库」
Mã giáp Kỵ binh, còn xưng là Kiêu kỵ
 
Lầu canh nơi huấn luyện Kiện duệ doanh
 
Dưới cùng là Bắc hải, ở trên là Trung - Nam hải

Quân doanhSửa đổi

Danh xưng Giới thiệu vắn tắt
Kiêu kỵ doanh Một trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh, bắt đầu từ "A Lễ Cáp Siêu Cáp doanh" giữa những năm Thiên Thông, thời Hoàng Thái Cực.

Thời Thuận Trị định ra chế độ rõ ràng, thiết lập Kiêu kỵ doanh trong quân Bát kỳ, là lực lượng lệ thuộc trực tiếp vào Đô thống.

Trong Kiêu kỵ doanh quản lý Mã giáp, Lĩnh thôi, Tượng dịch, các nhân viên đều điều từ dưới các Tá lĩnh của Mãn Châu Bát kỳ.

Hộ quân doanh Một trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh, bắt đầu từ "Ba Nha Lạt doanh" giữa những năm Thiên Thông, thời Hoàng Thái Cực.

Thượng Tam kỳ trông coi Hoàng cung Cấm môn (tức Ngọ môn), Đông Tây Hoa môn và Thần Vũ môn.

Hạ Ngũ kỳ trông coi cửa phủ của các Vương công Tông thất.

Thời Ung Chính đổi thành "Quân ti Cấm vệ". Các nhân viên đều điều từ Mãn - Mông Bát kỳ. Mỗi kỳ thiếp lập 1 Hộ quân Thống lĩnh (tui janggin).

Năm Ung Chính thứ 3 (1725), thiết lập thêm "Viên Minh Viên Bát kỳ Hộ quân doanh", đóng quân ở xung quanh Viên Minh viên, cũng là Ti Cấm vệ.

Tiền phong doanh Một trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh, bắt đầu từ "Cát Bố Thập Hiên Siêu Cáp doanh" những năm Thiên Thông, thời Hoàng Thái Cực.

Tuyển từ Mãn - Mông Bát kỳ những binh sĩ tinh nhuệ có thân thể khỏe mạnh, kỹ nghệ ưu tú, lập nên một doanh độc lập.

Những hoạt động đi tuần thời Thanh rất nhiều, Tiền phong doanh phụ trách làm quân tiền tiêu cảnh vệ mỗi khi Hoàng đế đi tuần du.

Kiện duệ doanh Một trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh, còn xưng là "Vân Thê binh", thiết lập vào năm Càn Long thứ 14 (1749).

Kiện duệ doanh trú đóng ở Hương Sơn - Bắc Kinh, chuyên luyện tập công thành.

Quân trong doanh được tuyển chọn rất nghiêm ngặt, binh ngạch 2000 người, phần lớn là người Mãn.

Thiết lập 1 Chưởng ấn Đại thần quản lý, bên dưới có 2 Dực trưởng (galai da)[chú thích 18], 8 Tham lĩnh, hơn 10 Tiền phong giáo.

Hỏa khí doanh Một trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh. Vì nhu cầu dẹp Loạn Tam phiên, Khang Hi Đế cực kỳ coi trọng kỹ thuật hỏa pháo.

Năm 1691, quy định toàn bộ doanh quân đều phải luyện tập Hỏa pháo, lại khuếch trưởng theo thủ vệ của Hoàng đế.

Quân trong doanh được tuyển chọn từ tất cả các Tá lĩnh thuộc Mãn - Mông - Hán Bát kỳ, tổng cộng quản lý gần 8000 quan binh.

Hỏa khí doanh đã phát huy công dụng quan trọng trong những cuộc dẹp Loạn Tam phiên, thu phục Đài Loan, chống sự xâm lược của Sa Hoàng,...

Bộ quân doanh Một trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh.

Chịu trách nhiệm bảo vệ Kinh sư, quân Mãn - Mông - Hán Bát kỳ chia ra trú phòng, nhân số tương đối đông.

Năm Khang Hi thứ 13 (1674), định chế binh ngạch là 21158 người.

Thần cơ doanh Một trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh, thiết lập vào năm Hàm Phong thứ 11 (1861).

Chức trách chủ yếu là thủ vệ 3 hồ lớn của Bắc Kinh (Trung Nam Hải, Bắc Hải và Thập Sát Hải) và theo Hoàng đế đi tuần du.

Quân trong Thần cơ doanh đều tuyển chọn những người võ nghệ cao cường từ các Tá lĩnh thuộc Mãn - Mông - Hán Bát kỳ và các doanh Tiền phong, Hộ quân, Bộ quân, Kiện duệ,...

Hổ thương doanh Một trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh, thiết lập vào thời Khang Hi.

Hổ thương doanh còn được xưng là "Thiếu niên Đại lực sĩ", giúp đỡ Khang Hi Đế rất lớn trong việc diệt trừ Ngao Bái, lập được công lao hiển hách.

Suy thoái và tan rãSửa đổi

Quá trìnhSửa đổi

Đến giữa thế kỷ 19, quân thường trực của nhà Thanh có 25 vạn quân Bát kỳ và 66 vạn quân Lục doanh.

Tình hình tổng quát thời Thanh mạt:

Danh xưng Cờ hiệu Binh lực Tổng nhân khẩu Kỳ chủ Những Lĩnh chủ khác Ghi chú
Tương Hoàng kỳ   86 Tá lĩnh, 2 phán phân Tá lĩnh

Binh lực ước chừng 30,000

230,000 Hoàng đế Không có Là Kỳ đứng đầu[69]. Có một khoảng thời gian ngắn Đa Đạc trở thành Kỳ chủ, cũng là Tông thất (không phải Hoàng đế) duy nhất làm chủ Kỳ này.
Chính Hoàng kỳ   92 Tá lĩnh, 2 bán phân Tá lĩnh

Binh lực ước chừng 32,000

250,000 Hoàng đế Không có
Chính Bạch kỳ   86 Tá lĩnh

Binh lực ước chừng 26,000

270,000 Hoàng đế Không có Những năm đầu Thuận Trị, kỳ chủ là Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn. Sau khi Đa Nhĩ Cổn mất, Thuận Trị liền tiếp quản, đến tận khi từ Hạ Ngũ kỳ chuyển thành Thượng Tam kỳ[70].
Chính Hồng kỳ   84 Tá lĩnh

Binh lực ước chừng 26,000

245,000 Lễ Thân vương[71] Thuận Thừa Quận vương[71]
Tương Bạch kỳ   84 Tá lĩnh

Binh lực ước chừng 26,000

230,000 Dự Thân vương[72] Thuần Thân vương[73]
Tương Hồng kỳ   86 Tá lĩnh

Binh lực ước chừng 28,000

230,000 Khắc Cần Quận vương[72] Trang Thân vương[72]
Chính Lam kỳ   83 Tá lĩnh, 11 bán phân Tá lĩnh

Binh lực ước chừng 27,000

250,000 Túc Thân vương[74] Duệ Thân vương[72]
Di Thân vương[75]
Tương Lam kỳ   87 Tá lĩnh, 1 bán phân Tá lĩnh,

Binh lực ước chừng 28,000

250,000 Trịnh Thân vương [72] Cung Thân vương[76]
Khánh Thân vương[77]

Tuy vậy cuối cùng đạo quân này cũng lại gặp phải bi kịch của đại quân Mông Cổ, đó là sức chiến đấu ngày càng giảm đi sau khi giành được thiên hạ. Những nguyên nhân có thể kể ra như:

  • Sau khi chiếm lĩnh được Trung Nguyên, Nhà Thanh bố trí Bát kỳ Mãn Châu làm quân đồn trú tại các địa phương để ngăn chặn sự nổi dậy của dân chúng. Điều này đẩy nhanh quá trình Hán hóa, và chỉ sau mấy chục năm hòa bình và hiếm khi thao luyện trên chiến trường, Bát kỳ Mãn Châu dần mất đi khả năng chiến đấu.
  • Quân Bát kỳ thực hiện chế độ cha truyền con nối, cả nhà đời đời nối nhau tham gia quân ngũ, cha là lính Bát kỳ thì các con trai cũng sẽ là lính Bát kỳ, không tuyển thêm người ngoài. Vì thế, một đứa trẻ sơ sinh cũng đã là một người lính Bát kỳ và được trả lương, dẫu rằng sau này lớn lên nó chẳng hề được huấn luyện quân sự và chẳng biết gì về việc tác chiến. Qua mấy thế hệ không gặp chiến tranh, tinh thần thượng võ trong các gia tộc quân nhân dần giảm sút, con cháu phải lo mưu sinh nên trình độ huấn luyện, tinh thần chiến đấu cũng ngày càng kém đi so với cha ông. Ngoài ra, do sinh đẻ thời đó khó kiểm soát nên nhân khẩu của Bát kỳ ngày càng tăng, Giữa thời Gia Khánh, tráng đinh người Mãn trong Bát kỳ có ước khoảng 50 vạn người, nếu như tính cả già trẻ và nữ giới thì có 150 vạn người, tăng thêm rất nhiều so với thời kỳ đầu triều Thanh. Bộ máy ngày càng cồng kềnh, chi phí lương bổng ngày càng nhiều lên khiến chi phí cho huấn luyện, mua sắm vũ khí ngày càng ít đi.
  • Mặt khác, lương bổng quá thấp khiến việc tuyển mộ khó khăn và tạo ra hiện tượng lính ma, lính kiểng, việc chạy chức, chạy quyền các chức vụ chỉ huy trong Lục doanh đã xảy ra. Vì vậy phẩm chất tướng lãnh xuống thấp và nạn lính ma tăng cao. Các binh sĩ và chỉ huy đều không quan tâm tới việc huấn luyện mà chỉ chăm chú vào việc lao động kiếm tiền. Quan binh tham nhũng, ăn chặn lương bổng khiến binh sĩ mang tâm lý bất mãn đối với triều đình, không muốn liều mạng đổ máu cho triều đình và quan lại, khi có chiến sự chỉ lo bảo toàn tính mạng, hiếm khi xung phong hãm trận.
  • Quân Bát kỳ vẫn duy trì trang bị, lối huấn luyện giống như hồi giữa thế kỷ 17. Với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, súng cầm tay và đại bác dần trở nên phổ biến, nhưng quân Bát kỳ vẫn tiếp tục duy trì chiến thuật kỵ binh và bắn cung như trước kia. Đến đầu thế kỷ 19 thì trang bị, chiến thuật của quân Bát kỳ đã trở nên lạc hậu, thậm chí còn kém hơn so với quân đội một số nước láng giềng chứ chưa nói tới quân đội các nước tư bản tiên tiến ở châu Âu. Danh tướng Phúc Khang An thời Càn Long – Gia Khánh từng dâng sớ cảnh báo: "Trận thế của quân Lục doanh xưa nay, chỉ là các thức lưỡng nghi tứ tượng, vuông tròn. Đây đều là các trận thế được truyền lại từ tiền triều, bắt chước như cũ. Bình thường thao duyệt tuy đáng xem nhưng khi lâm trận chiến đấu lại không thực dụng".
  • Đến đầu thế kỷ 19 thì Trung Quốc còn gặp họa thuốc phiện do phương Tây đưa vào. Nhiều tướng sỹ nghiện thuốc phiện, thể chất và trí lực trở nên yếu ớt, bệnh hoạn, không còn sức chiến đấu khi ra trận. Lâm Tắc Từ từng dâng tấu cho vua Đạo Quang nói về tác hại của thuốc phiện: “Thuốc phiện nếu không cấm tuyệt, thì nước mỗi ngày một nghèo, dân mỗi ngày một yếu; chỉ hơn chục năm sau, nước nhà không còn quân mạnh để ngự địch, không có bạc nén để lo quân lương”.

Bát kỳ Mãn Châu đã nhanh chóng thoái hóa, tốc độ thoái hóa còn nhanh hơn quân đội Mông Cổ mấy lần. Ngay từ năm 1657, vua Thuận Trị đã than phiền là quân Bát kỳ bị tụt giảm lớn về chất lượng, không sánh được với thời kỳ trước. Đến nửa cuối thế kỷ 17, đạo quân này về cơ bản đã biến thành kiêu binh. Chiến dịch đánh Đài Loan, chống loạn Tam phiên và bình Khiết Đan, Mông Cổ về cơ bản đều do quân Lục doanh người Hán gánh vác.[21] Và chỉ sau một thời gian thanh bình, Lục doanh cũng thoái hóa và mất dần khả năng quân sự và kỷ luật. Chất lượng quân đội nhà Mãn Thanh vào đầu thế kỷ 18 đã xuống dốc nghiêm trọng so với thời lập quốc.

Đến thời Càn Long, quân Bát kỳ đã trở nên rất suy thoái, hữu danh vô thực. Năm 1784, Càn Long đến Hàng Châu xem thao diễn quân sự, quân Bát kỳ ở đó bắn tên hầu hết bị trượt, có người cưỡi ngựa không vững bị té xuống đất. Trong Khởi nghĩa Bạch Liên giáo (1795), quân đội nhà Thanh mà nòng cốt là Bát kỳ Mãn Châu đã tỏ rõ sự xuống cấp nghiêm trọng về tác chiến. Họ phải điều động mấy chục vạn quân từ 16 tỉnh để trấn áp cuộc nổi dậy, hơn 10 võ quan cao cấp như Đề đốc, Tổng binh và hơn 400 võ quan trung cấp từ Phó tướng trở xuống tử trận[78] Chưa nói việc tác chiến mà ngay cả việc hành quân đường núi cũng đã là điều khó nhọc với binh sỹ Bát kỳ, trong 2 ngày họ chỉ đi được 70 dặm đường (khoảng 35 km). Trong chiến dịch Xuyên Sở, sách sử ghi lại xét chư tướng tụ tập ăn uống, vốn thâm hụt một khoản lớn, như cua cá hải sản 30, 40 loại, còn chi phí khao thưởng cho cấp dưới thì không tính nổi. Phàm những nơi màu mỡ, các chợ búa đầy ngọc ngà gấm lụa thì việc biếu xén, hối lộ, đánh bạc,… phung phí như bùn đất.[79] Bởi sự hủ bại không thể cứu vãn của các lực lượng chính quy Bát kỳ, Lục doanh, nhà Thanh buộc phải dựa vào binh sĩ địa phương để trấn áp cuộc khởi nghĩa.

Đến thời Đạo Quang, nhà vua từng thao duyệt hỏa khí doanh Bát kỳ ở kinh sư, là binh chủng chuyên về hỏa khí khi đó, trước giờ vẫn xưng là tinh hoa của Bát kỳ, kết quả là đa phần đại pháo bắn không trúng bia, đạn thì có viên bay nửa chừng rớt xuống đất. Quân Thanh giữ Sơn Hải quan bị thiếu hụt đại pháo giữ ải, phải lấy pháo cũ đã bỏ đi từ thời nhà Minh 200 năm trước đó để dự phòng. Vào giữa thế kỷ 19, các nước phương Tây đã bắt đầu dùng các loại vũ khí tân tiến như súng trường có rãnh xoắn, súng liên thanh, lựu đạn và địa lôi. Nhưng quân Thanh trong Chiến tranh Nha phiến 1840 vẫn tiếp tục dùng súng điểu thương, giáo gươm, cung tên giống như hồi thế kỷ 17.

Trong Chiến tranh nha phiến năm 1841, quân Anh chỉ điều động hơn 2 vạn người, còn nhà Thanh đã điều động tới hơn 10 vạn quân trú phòng ở các tỉnh, các tỉnh duyên hải còn chiêu mộ một số lượng lớn hương dũng để bố phòng, hao tổn hết hơn 20 triệu lạng bạc, vậy mà không thắng nổi một trận lớn nào. Chiến tranh nha phiến càng bộc lộ sự hủ bại của quân đội nhà Thanh: tuy xuất hiện một số gương tướng lĩnh trung quân ái quốc, quên mình hy sinh vì nước như Lâm Tắc Từ, Quan Thiên Bồi, nhưng về đại thể thì năng lực của đa số tướng soái đều tầm thường, nhiều nơi binh sỹ thấy địch thì tháo chạy.

Ngoài quân Bát kỳ là người Mãn Châu, còn có quân Bát kỳ là người Mông Cổ. Họ vẫn sống trên thảo nguyên, không di cư vào Trung Quốc nên không bị Hán hóa và vẫn còn giữ được khả năng chiến đấu lâu dài hơn Bát kỳ Mãn Châu. Nhưng tới cuối thời Càn Long (cuối thế kỷ 18) thì lực lượng này cơ bản cũng đã suy thoái, đội quân này bị đánh bại trong một chiến dịch đánh khởi nghĩa Niệp quân (Nian Army) vào thập niên 1860.

Trong Khởi nghĩa Thái Bình Thiên quốc (1851), quân Bát kỳ và Lục doanh đã quá hủ bại nên liên tục bại trận. Chỉ trong vòng chưa đầy nửa năm, quân Thái Bình Thiên quốc đã chiếm được hơn 16 tỉnh, 600 thị trấn... làm triều đình nhà Thanh lung lay đến tận gốc rễ. Tháng 3 năm 1853, quân nổi dậy chiếm được thành phố quan trọng phía Nam của nhà Thanh là Nam Kinh. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, lực lượng viễn chinh của Thái Bình Thiên Quốc xâm nhập về phía bắc tới tận các vùng ngoại ô Thiên Tân (天津), áp sát thủ đô Bắc Kinh của nhà Thanh.

Nhà Thanh phải chấp nhận nhiều đội quân "Dũng binh" kiểu mới ra đời để cứu vãn như Tương quân của Tăng Quốc Phiên, Sở quân của Tả Tông Đường, Hoài quân của Lý Hồng Chương và đạo quân đánh thuê nước ngoài Thường Thắng quân.[21] Súng trường được du nhập vào Trung Hoa do Thường Thắng quân của F. T. Ward và C. G. Gordon chỉ huy hồi thập niên 1860 khi họ giúp triều đình chống lại quân Thái Bình Thiên Quốc nhưng chưa được trang bị (đại trà) cho quân đội Trung Hoa. Hoài quân (Huaijun) của Lý Hồng Chương có lẽ là lực lượng đầu tiên dùng các vũ khí mới này vào đầu thập niên 1860. Tuy nhiên, mãi đến thập niên 1880 súng trường mới là vũ khí tiêu chuẩn cho quân đội Trung Hoa. Bát kỳ và Lục doanh quân làm lãng phí các nguồn tài nguyên cần thiết cho bộ máy hành chính của nhà Thanh nên dần biến mất, từ thập niên 1870 các cơ cấu Dũng binh trên thực tế đã trở thành lực lượng số một của nhà Thanh.

Sau khi nhà Thanh sụp đổSửa đổi

Sau khi Phổ Nghi thoái vị, người Bát kỳ nhờ vào "Điều kiện ưu đãi cho Hoàng thất nhà Thanh" mà được giữ lại một bộ phận chức năng. Nha môn Bát kỳ thuộc dưới sự quản lý của Bộ Lục quân của Chính phủ Bắc Kinh thuộc Trung Hoa Dân quốc, do Bộ này phân công việc và phát quân tiền. Sau chính biến ở Bắc Kinh vào năm 1924, quân tiền của người dân Bát kỳ bị dừng phát, nha môn Bát kỳ chỉ còn lại hình thức. Năm 1928, quân cách mạng Quốc dân bắc phạt thành công, Chính phủ Quốc dân chính thức xóa bỏ nha môn Bát kỳ[80]. Trừ Kinh kỳ, còn lại quân Trú phòng Bát kỳ ở Tây Bắc và Đông Bắc như Sách Luân Bát kỳ ở Hỗ Luân Bối Nhĩ, Bố Đặc Cáp Bát kỳ, Tích Bá doanh ở Tân Cương,... vì nguyên nhân lịch sử mà trong lúc xây dựng chế độ mới đã được giữ lại. Năm 1932, nha môn Phó Đô thống của Hỗ Luân Bối Nhĩ và Bố Đặc Cáp Bát kỳ bị chính phủ Mãn Châu Quốc hủy bỏ[81]. Đến năm 1938, Tích Bá doanh là tổ chức Bát kỳ cuối cùng cũng bị chỉnh phủ của khu tự trị Tân Cương xóa bỏ.

Từ thời Thanh trung hậu kỳ, những người Mông Cổ và Hán thuộc Bát kỳ vì sự ảnh hưởng của Kỳ mà dẫn đến phong tục tập quán, ngôn ngữ khác biệt tương đối lớn với người Mông Cổ, Hán truyền thống, lại trở nên giống với người Mãn Châu. Điều đó dẫn đến thời Dân Quốc, những người này không chỉ bị người khác nhận định mà họ còn tự nhận mình là người Mãn tộc. Trong quá trình phân biệt dân tộc trong thời kỳ mới, tổ tiên gia tộc có từng có Kỳ tịch thời Thanh hay không trở thành một trong những yếu tố quan trọng để phán định có phải người Mãn tộc hay không[82]. Vì vậy, Mãn tộc ngày nay là sự dung hợp của nhiều tộc người thuộc Bát kỳ lúc trước mà thành[19][83][84][85]. Kỳ nhân trở thành một tên gọi khác của Mãn tộc cũng từ đó mà truyền đến nay[86][87].

Tương quanSửa đổi

Việc quản lý các Ngưu lục trong KỳSửa đổi

Theo Biên chế cơ bản của Bát kỳ, mỗi Kỳ được cấu tạo từ Tá lĩnh < Tham lĩnh < Kỳ. Về phương diện khác, Bát kỳ còn được xem là "tài sản riêng" của Hoàng tộc, vì vậy mỗi Kỳ đều có các "Chủ nhân" là các Tông thất Vương công. Các chủ nhân này đều xuất thân Hoàng thất, và bắt buộc đều phải thuộc diện “Nhập bát phân công”, gồm 6 tước bậc là Thân vương, Quận vương, Bối lặc, Bối tử, Trấn quốc côngPhụ quốc công. Như trong một Kỳ, một Thân vương sở hữu 10 Ngưu lục, một Quận vương sở hữu 5 Ngưu lục, một Bối lặc sở hữu 3 Ngưu lục và một Trấn quốc công sở hữu 2 Ngưu lục, vậy thì 4 người trên đều là "Lĩnh chủ" (领主) của Kỳ đó, Thân vương sở hữu nhiều nhất thì trở thành Lĩnh chủ lớn nhất, tức Kỳ chủ (旗主).

Khác với chế độ phong Vương phân đất trong những thời kỳ trước, Tông thất Vương công thời Thanh không có đất phong như thời Hán. Thay vào đó, họ có quyền quản lý các "Ngưu lục", trở thành "Chủ nhân" của tất cả những người thuộc biên chế của Ngưu lục đó. Đầu thời nhà Thanh, thế lực của các Kỳ chủ rất lớn cũng bởi chế độ này, họ có toàn quyền khống chế Kỳ mình nắm giữ, thậm chí như Đa Nhĩ Cổn nắm giữ thế lực hai Bạch kỳ tương đương với Hoàng đế nắm giữ hai Hoàng kỳ. Đây cũng là lý do khiến các Hoàng đế nhà Thanh về sau tận lực thu hồi quyền khống chế Kỳ từ tay các Kỳ chủ.

Chế độ phân phong và Kỳ phân của Tông thấtSửa đổi

Chế độ Bát Kỳ về thực chất là quan hệ "chủ - bộc" trực tiếp của Kỳ chủ - Lĩnh chủ (những chủ nhân của Ngưu lục) và những người thuộc Kỳ (chịu sự quản lý của Ngưu lục). Trong Bát Kỳ, chủ nhân của Thượng tam kỳ là Hoàng đế, cũng đồng nghĩa với việc tất cả Ngưu lục của Thượng tam kỳ đều thuộc về Hoàng đế. Vì vậy trong Thượng tam kỳ không có Nhập bát phân công. Ngược lại, các Ngưu lục trong Hạ ngũ kỳ sẽ do các Nhập bát phân công làm chủ.

Khi một vị Nhập bát phân công được phong tước, ông ta sẽ được [Nhập kỳ; 入旗], tức là phân ra Hạ ngũ kỳ. Như một Hoàng tử A khi được phong tước Thân vương, được xét đến Chính Lam kỳ làm “Lĩnh chủ”, thì sau đó sẽ được phân Ngưu lục trong Chính Lam kỳ, sau khi nhập kỳ thì hậu duệ về sau đều mang Kỳ tịch này. Đây chính là nguyên nhân từ thời Thuận Trị về sau, Tông thất đều là người của Hạ ngũ kỳ, hậu duệ đều mang Kỳ tịch của Hạ ngũ kỳ.

12 vị Thiết mạo tử vương đời Thanh đều ở Hạ ngũ kỳ:

Việc một Tông thất được phân vào Kỳ nào đều do Hoàng đế quyết định. Trình tự việc này thường là, khi một Hoàng tử được phong Vương, Tông Nhân phủ sẽ đệ trình báo cáo, xem trong Hạ ngũ kỳ, Kỳ nào có số lượng Ngưu lục tương đối nhiều, thích hợp phân phong, rồi Hoàng đế sẽ dựa vào báo cáo đó quyết định Hoàng tử ấy sẽ nhập Kỳ nào. Khi vị Hoàng tử Vương này nhập Kỳ, chính mình sẽ là người của Kỳ ấy, con cháu về sau cũng đều mang Kỳ tịch này vĩnh viễn.

Một ví dụ cho việc này là Đạo Quang Đế phân cho hai người em là Miên Khải, Miên Hân nhập kỳ. Chỉ dụ nói rõ: [Đôn Thân vương Miên Khải, ở Tương Bạch kỳ. Thụy Thân vương Miên Hân, ở Tương Hồng kỳ]. Thẳng đến cuối đời Thanh, Đôn vương phủ vẫn là “Tả dực cận chi Đệ nhất tộc Tương Bạch kỳ nhân”, còn Thụy vương phủ vẫn là “Hữu dực cận chi đệ nhất tộc Tương Hồng kỳ nhân”.

Việc người Bát kỳ xưng "Nô tài"Sửa đổi

Một trong những điểm khác biệt giữa nhà Thanh và các triều đại khác là vấn đề xưng hô "Nô tài". Nhiều người cho rằng, xưng hô này thể hiện sự hèn mọn hoặc xuất thân thấp của người nói, tuy nhiên điều này lại không phù hợp với quan điểm của nhà Thanh. Chế độ Bát kỳ là một chế độ cấu thành rất phức tạp, căn cứ theo tập quán trước lúc nhập quan, bên trong giai cấp cấu thành vốn có quan hệ cấp trên - cấp dưới trực tiếp. Trước mặt "Cấp trên" thì "cấp dưới" đều tự xưng “Nô tài”. Nhưng mà, cũng không phải nói là lúc nào cũng phải xưng “Nô tài”. Xét tổng thể, trong tấu chương của người Bát kỳ thời Thanh, có 2 loại tự xưng:

  • “Thần” (臣), Mãn văn là “Amban”
  • “Nô tài” (奴才), Mãn văn là “Aha”

Hai cái này đối ứng một cách nghiêm khác, nếu bản tiếng Hán là “Nô tài” thì bản tiếng Mẫn buộc phải là “Aha”. Nhưng lúc nào sử dụng “Thần”, lúc nào sử dụng “Nô tài”, ngoài bởi vì điều kiện sử dụng mà còn bởi vì thời kỳ khác nhau mà có sự khác nhau. Vấn đề này có thể tương đối chia làm 5 thời kỳ.

1. Thời kỳ không biết xưng như thế nào (trước khi nhập quan)

Bởi vì tư liệu trước nhập quan quá phức tạp, hơn nữa còn là tư liệu dịch qua tay nhiều người[chú thích 19], vì vậy thời kỳ quan ngoại, Mãn - Hán thần xưng như thế nào rất khó để chắc chắn. Tuy nhiên, bất kể như thế nào thì thời kỳ này việc xưng hô tương đối tùy ý, đặc biệt là đối với Hán thần[chú thích 20].

Đầu tiên nói về Hán thần. Căn cứ theo hồ sơ trước khi nhập quan, xưng "Thần" tương đối thường thấy, thậm chí còn xưng "Ngã" (ta, tôi), đặc biệt là vào thời Hoàng Thái Cực, việc xưng hô cực kì loạn.

Mặt khác, xưng hô của Kỳ nhân cũng phức tạp không kém. Trước khi nhập quan, Hoàng Đế vẫn chưa có thân phận "Bát kỳ cộng chủ", vì vậy việc Kỳ nhân xưng "Thần" (amban) hay "Nô tài" (aha) đương nhiên cũng sẽ khác với sau này. Thời kỳ này, tình trạng xưng Nô tài với Kỳ chủ của mình và xưng Thần với Kỳ chủ khác tương đối phổ biến. Tuy nhiên, tình huống người thuộc Hoàng kỳ (do đích thân Đại Hãn thống lĩnh) lại xưng "Thần" với Hãn vương thực sự cũng từng có. Nói một cách dễ hiểu, Nô tài là xưng hô để thể hiện là "cấp dưới trực tiếp", thể hiện sự thân cận đối với cấp trên. Người Bát kỳ sẽ xưng "Nô tài" với cấp trên trực tiếp của mình và xưng "Thần" với những cấp trên khác.

2. Thời kỳ dần hình thành thông lệ (thời Thuận TrịKhang Hi)

Sau khi nhập quan, các chế độ của nhà Thanh từng bước được thành lập, trong vấn đề Thần tử tự xưng tuy chưa có quy định chính thức nhưng cũng đã bắt đầu hình thành thông lệ.

Lệ của Hán nhân tương đối loạn, giai đoạn này chủ yếu xưng "Thần" , nhưng cũng có ngoại lệ chính là quan Võ. Theo những hồ sơ về Hán thần trước mắt về thời Thuận Trị và Khang Hi, trong tấu chiết của quan Võ thì hơn một nửa là xưng "Nô tài". Lệ này có lẽ bắt đầu hình thành trong giai đoạn này, về sau Càn Long Đế cũng từng dẫn ra.

Còn lại những người Bát kỳ khác, vẫn không hề có một quy chuẩn cụ thể nào, việc xưng hô thời kỳ này vẫn cực kỳ hỗn loạn. Có một ví dụ như này, lúc Ung Chính vẫn còn là Ung Thân vương, từng gửi cho Niên Canh Nghiêu một bức thư, trong đó có đoạn sau: "Huống tại Triều đình xưng quân thần, tại bản môn xưng chủ bộc, vì từ Thân vương, Quận vương, Bối lặc, Bối tử đến Công ai cũng xưng Chủ tử, nô tài, đã thành thông hành thường lệ"[chú thích 21].

Có thể thấy được vào thời kỳ này, khác nhau giữa "Bản chủ" (Kỳ chủ của mình) và "Cộng chủ" (Chủ nhân chung, tức Hoàng Đế) vẫn tương đối rõ ràng, vì vậy xưng hô đối với Bản chủ và đối với Hoàng Đế vẫn khác nhau. Từ hồ sơ trước mắt mà những nhà nghiên cứu như Từ Quảng Nguyên, Quất Huyền Nhã tra được thì thời Thuận TrịKhang Hi chỉ hình thành nên khuynh hướng về thông lệ này.

3. Lệ cũ bị phá vỡ (thời Ung Chính)

Năm Ung Chính nguyên niên (1723), Ung Chính Đế hạ một đạo thượng dụ "Phàm là tấu chương xưng Thần, xưng Nô tài, đều là từ của hạ thần, không nên viết khác nhau. Từ nay về sau liền dùng một chữ Thần để viết"[chú thích 22]. Nguyên do tại sao lại xuất hiện đạo dụ này thì đến nay vẫn không rõ. Nhà sử học Dịch Trung Thiên (易中天) cho rằng Ung Chính đế muốn xây dựng một loại "Quan hệ Quân thần lý tưởng hóa". Nhưng đây chỉ có thể dùng để tham khảo.

Bất kể như thế nào, đạo chỉ dụ này của Ung Chính đã phá vỡ thói quen thông lệ đang dần hình thành thời Thuận - Khang, dần dần hình thành thói quen mới. Hán thần từ trước hầu hết đều xưng Thần. Còn về Mãn thần, trên thực tế, trong các tấu chiết thời Ung Chính vẫn xuất hiện Mãn thần xưng Nô tài, phần lớn là tấu chiết thỉnh an và tấu chiết của quan viên Nội vụ phủ[chú thích 23].

4. Thời kỳ nhắc lại lệ cũ và hình thành chế độ (thời Càn Long)

Sau khi Ung Chính qua đời, Càn Long Đế kế vị, dần dần khôi phục sự khác nhau trong việc xưng hô của thần tử. Năm Càn Long thứ 23 (1758), tháng 2, Càn Long Đế dụ: "Mãn Châu đại thần tấu sự, xưng Thần, xưng Nô tài, tự dạng bất nhất. Truyền dụ tư nay về sau, ban hành công sự triệp tấu, xưng Thần. Thỉnh an, tạ ân, tầm thường triệp tấu, nhưng xưng Nô tài. Để bảo tồn thể chế cũ của Mãn Châu"[chú thích 24].

Năm thứ 38 (1773), Càn Long Đế dụ: "(Công chiết của Hán thần và Mãn thần) Võ quan dù quan đến Đề đốc cũng đều xưng Nô tài, đây là định lệ từ trước tới nay"[chú thích 25].

Từ đây, cách xưng hô "Thần" và "Nô tài" chính thức hình thành định lệ.

  • Mãn thần: Việc công xưng Thần, việc tư xưng Nô tài.
  • Hán thần: tất cả đều xưng Thần
  • Quan võ: tất cả đều xưng Nô tài

Chế độ này được thực hiện đến thời Vãn Thanh. Mặc dù trên thực tế cũng có vài ngoại lệ

5. Thời kỳ "Hoa nhất" cuối thời Thanh

Thời kỳ "Hoa nhất" thực sự không dài. Vốn là từ thời Quang Tự đã có người đề nghị nhưng không thành. Về sau, năm Tuyên Thống thứ 2 (1910), Phổ Nghi dụ Nội các: "Trong lúc chuẩn bị Lập hiến, là lúc thích hợp gạt bỏ thành kiến, làm phai đi sự khác nhau. Từ nay về sau, trong ngoài Mãn Hán Văn Võ chư thần dâng tấu tất thảy đều xưng Thần, từ đây tạo ra một Đại Đồng"[chú thích 26].

Mặc dù nhìn trên bối cảnh của nhà Thanh thời bấy giờ, đạo dụ chỉ này đã không còn tác dụng thực tế.

Nhìn chung, bởi sự phức tạp của chế độ Bát kỳ, cộng thêm sự khác biệt văn hóa vốn có giữa người Mãn Châu (dân tộc thiểu số nhưng nắm quyền thống trị) và người Hán (dân tộc chiếm số đông nhưng lại là tầng lớp bị cai trị), dẫn đến việc xưng hô này cũng như những vấn đề khác trong xã hội, đều rất phức tạp, trải qua nhiều sự thay đổi. Dù đã có nhiều dụ chỉ về việc xưng hô của Hán thần, tuy nhiên việc Hán thần xưng Nô tài rất nhiều.

Đối với Mãn thần những lúc vốn phải xưng "Nô tài" mà lại đi xưng "Thần" thì chính là "Thượng dụ Toàn quốc thông cáo phê bình" (Ban bố thông báo phê bình toàn quốc, loại phê bình này đến cuối thời Quang Tự vẫn còn). Cách chức điều tra, vĩnh viễn không được bổ nhiệm nữa, đày đi sung quân,.... Đây được xem là tội lớn đối với người Bát kỳ. Nhưng ngược lại đối với Hán thần, cho dù là trước hay sau khi có định chế, việc xưng hô sai cũng thường đều được bỏ quan, thể hiện sự rộng rãi của Hoàng Đế đối với người Hán[88].

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Người Bát kỳ thông thường tự giới thiệu đều là "Mỗ Tá lĩnh hạ", duy chỉ có hộ khẩu của Hoàng Đế là "Mỗ Tá lĩnh thượng"[11].
  2. ^ Tương đương 3 "Trại" trước đó.
  3. ^ Thông thường là quan Tứ phẩm, phân chia làm 2 loại là được thế tập và không được thế tập. Thế tập Tá lĩnh thường là dựa theo công lao, chủ yếu chia thành huân cựu (hậu duệ các Quốc chủ, tộc trưởng), thế quản và hỗ quản Tá lĩnh. Tá lĩnh không được thế tập là do triều đình cử quan viên đảm nhiệm quản lý[25].
  4. ^ Thông thường là quan Tam phẩm, ban đầu cứ 5 Tá lĩnh thuộc 1 Tham lĩnh, nhưng tùy thuộc vào việc tăng số lượng Tá lĩnh mà đến những năm Khang Hi, dưới mỗi Tham lĩnh đều là khoảng 20 Tá lĩnh[26]. Các kỳ Mông Cổ bởi vì nhân khẩu tương đối ít nên dưới 1 Tham lĩnh chỉ có 2-3 Tá lĩnh[27].
  5. ^ Xem thêm ở mục #Về việc quản lý các Ngưu lục trong Kỳ
  6. ^ Về sau, thời Thuận Trị, Kỳ chủ Chính Bạch Kỳ là Đa Nhĩ Cổn có công lao nhiếp chính nên chuyển thuộc lên Thượng Tam kỳ. Chính Lam kỳ tuy thuộc Hoàng đế nhưng bị chuyển xuống Hạ Ngũ kỳ.
  7. ^ Là những người có hộ tịch chính thống, tức là người thuộc Bát kỳ (hoặc Mông Cổ Minh kỳ)
  8. ^ Những người không thuộc Bát kỳ
  9. ^ Mãn Châu này không phải tộc duệ như Mãn - Mông - Hán Bát kỳ, mà là để phân biệt với Kỳ cổ, Cao Ly, Hồi tử,...
  10. ^ Vì chế độ Bát kỳ của nhà Thanh mà người dân chia làm 2 loại chính là "Kỳ nhân" - người thuộc Bát kỳ (hoặc Minh kỳ của Mông Cổ) và "Dân nhân" - người không thuộc Bát kỳ, là dân đen, thân phận thấp.
  11. ^ Dùng Kỳ để thống lĩnh quân, dùng Kỳ để quản lý người
  12. ^ Nguyên văn dụ chỉ: 满汉臣民... 惟旧例不通婚姻. 原因入关之初, 风俗语言, 或多未喻, 是以着为禁令. 今则... 开除此禁... 准其彼此结婚, 毋庸拘泥
  13. ^ Nguyên văn tấu: 奴才福隆安谨奏. 本月十八日奉旨: 林贵人着入于内务府旗档, 钦此. 奴才遵旨将林贵人一户人丁查明户口, 入于内务府镶黄旗化齐管领下作为另户旗人, 与本管领下人一体造入旗档.
  14. ^ Tức đồ sát - giết hàng loạt dân chúng trong thành. Đây là một trong những cuộc thảm sát bị lên án của nhà Thanh trước khi nhập quan.
  15. ^ Đãi chúc (隶属), nghĩa là chịu sự quản lý
  16. ^ Là hệ thống Bát kỳ riêng, không thuộc Mãn - Mông - Hán Bát kỳ
  17. ^ Nhà Thanh duy trì chế độ 2 Kinh sư là Bắc Kinh và Thịnh Kinh, tất cả Tông thất ngoại trừ trường hợp Trú phòng đều không được ra khỏi Kinh sư, nếu chạy trốn thì bị khép vào đội "đào Kỳ", là tội lớn.
  18. ^ Kiện duệ doanh căn cứ vào Kỳ phân mà phân là Tả dực (gồm Tương Hoàng kỳ, Chính Bạch kỳ, Tương Bạch kỳ, Chính Lam kỳ) và Hữu dực (Chính Hoàng kỳ, Chính Hồng kỳ, Tương Hồng kỳ, Tương Lam kỳ).
  19. ^ Tài liệu về nhà Thanh trước khi nhập quan đều là văn kiện chữ Mãn, qua nhiều lần dịch từ chính thời Thanh, lại qua nhiều năm, ảnh hưởng bởi vấn đề khác biệt trong các phiên âm chữ Mãn mà dẫn đến nhiều sai lệch.
  20. ^ Hán thần tương tự với Hán phi, là chỉ những quan viên không có hộ tịch Bát kỳ, không phải chỉ riêng quan viên "người Hán".
  21. ^ Nguyên văn: 况在朝廷称君臣, 在本门称主仆, 故自亲王, 郡王, 贝勒, 贝子以至公等莫不皆称主子, 奴才, 此通行常例也
  22. ^ Nguyên văn: 凡奏章称臣, 称奴才, 俱是臣下之词, 不宜两样书写. 嗣后着一槩书写臣字.
  23. ^ Tấu chiết thỉnh an vốn để thăm hỏi Hoàng Đế, bày tỏ tấm lòng, việc xưng hô Nô tài càng thể hiện sự "thân cận". Còn quan viên Nội vụ phủ vốn từ trước luôn là "cấp dưới trực tiếp" nhất của Hoàng Đế, việc xưng Nô tài là thói quen cũng là hợp lẽ.
  24. ^ Nguyên văn: 满洲大臣奏事, 称臣, 称奴才字样不一. 着传谕, 嗣后颁行, 公事折奏, 称臣. 请安, 谢恩, 寻常摺奏, 仍称奴才, 以存满洲旧体.
  25. ^ Nguyên văn: 武员即官至提督亦称奴才, 此乃向来定例
  26. ^ Nguyên văn: 当此豫备立宪时代, 尤宜化除成见, 悉泯异同. 嗣后内外满汉文武诸臣陈奏事件, 着一律称臣, 以昭画一而示大同.

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ Trọng Cao, Hạ Linh & Đông Khắc Lực (2008), tr. 1938
  2. ^ Ngô Nguyên Phong & Triệu Chí Cường (2008), tr. 87
  3. ^ Kê Nam & Ngô Khắc Nghiêu (1990), tr. 26-27
  4. ^ Đông Giai Giang (ngày 13 tháng 11 năm 2009). “Thảo luận về thời gian chế độ Bát Kỳ nhà Thanh biến mất”. Công trình biên soạn Thanh sử Quốc gia. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2017. Chú thích có tham số trống không rõ: |9= (trợ giúp)
  5. ^ Kim Quang Bình, Kim Khải Tông & Ô Lạp Hi Xuân (1996), tr. 230
  6. ^ a b W. Scott Morton & Charlton M. Lewis (2008), tr. 178
  7. ^ Đỗ Gia Ký (1997), tr. 4
  8. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 225
  9. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 221, 226-227
  10. ^ a b c Đỗ Gia Ký (2008), tr. 228
  11. ^ a b Kim Thụ Thân (1999), tr. 84
  12. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 42
  13. ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1682), Quyển 22
  14. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 42 - 43
  15. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 33
  16. ^ a b Mười đại mưu lược gia Trung Quốc, sđd.
  17. ^ Chiêu Liên (1980), tr. 336
  18. ^ Phúc Cách (1984), tr. 5
  19. ^ a b Đỗ Gia Ký (2008), tr. 46
  20. ^ Xem "Lịch sử đích thiên không" ngày 24 tháng 4 năm 2008 với nhan đề: "lịch sử thượng thập đại thường thắng quân" tại "Shangdu.com" ngày 15 tháng 5 năm 2008, người dịch Nguyễn Duy Chính
  21. ^ a b c Lý Thuyết Quân sự Trung-Hoa, dịch thuật Nguyễn Duy Chính. Nguyễn Duy Chính dịch tại www.thuvien-ebook.net
  22. ^ Vũ Đức Sao Biển (2010)
  23. ^ Quang Thiệu & Quang Ninh (2006)
  24. ^ Diêm Sùng Niên (2006), tr. 117
  25. ^ Trịnh Thiên Đỉnh (2009), tr. 175, 176
  26. ^ Ngạc Nhĩ Thái (1985), tr. 25-294
  27. ^ Mạnh Sâm (2010), tr. 85
  28. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 9
  29. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 221, 229, 276 - 277
  30. ^ Đông A Sáng (1997), tr. 262
  31. ^ Kha Xuân Kiều & Hà Xuân Học (2000)
  32. ^ a b Lý Vân Hà. “Từ đổi Kỳ và đài Kỳ xem sự thay đổi trong dân tộc Bát kỳ” (PDF) (bằng tiếng Trung). Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2017.
  33. ^ Kha Xuân Kiều & Hà Xuân Học (2000), tr. 194
  34. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 256
  35. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 257
  36. ^ Mạnh Sâm (2010), tr. 79 - 80
  37. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 259 - 260
  38. ^ Mạnh Sâm (2010), tr. 5
  39. ^ Lưu Tiểu Manh (2008), tr. 1
  40. ^ Hội đồng biên tập Mãn tộc giản sử (2009), tr. 86
  41. ^ Hoằng Trú (2002), tr. 20 - 23
  42. ^ Hoằng Trú (2002), tr. 16 - 19
  43. ^ Triệu Nhĩ Tốn (1998), tr. 9285
  44. ^ Ngạc Nhĩ Thái (1985), tr. 56, 93
  45. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 440
  46. ^ Triệu Nhĩ Tốn (1998), tr. 3863
  47. ^ Ngạc Nhĩ Thái (1985), tr. 38
  48. ^ Triệu Nhĩ Tốn (1998), tr. 14640
  49. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 446
  50. ^ Lưu Tiểu Manh (2008), tr. 56
  51. ^ Trịnh Thiên Đỉnh (2009), tr. 112, 201
  52. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 444
  53. ^ Lưu Tiểu Manh (2008), tr. 57
  54. ^ Lưu Tiểu Manh (2008), tr. 216
  55. ^ Lưu Tiểu Manh (2008), tr. 66
  56. ^ Sở nghiên cứu Lịch sử cận đại, viện Khoa học Xã hội Trung Quốc. “Khái quát "Hội thảo nghiên cứu học thuật Quốc tế về quan hệ Mãn - Hán thời Thanh" (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2020.
  57. ^ Quất Huyền Nhã (24 tháng 4 năm 2017). “Hỏi đáp về việc học trong Vương phủ thời Thanh”. Blog Sina.
  58. ^ Lưu Tiểu Manh (2008), tr. 6, 219
  59. ^ a b Lưu Tiểu Manh (2008), tr. 11-12
  60. ^ Lưu Tiểu Manh (2008), tr. 12
  61. ^ Lưu Tiểu Manh (2008), tr. 18
  62. ^ a b Lưu Tiểu Manh (2008), tr. 16
  63. ^ Trịnh Thiên Đỉnh (1989), tr. 211
  64. ^ Định Nghi Trang (1998), tr. 15-16
  65. ^ a b c d Lưu Tiểu Manh (2008), tr. 20
  66. ^ a b c d e Lưu Tiểu Manh (2008), tr. 21
  67. ^ Lưu Tiểu Manh (2008), tr. 23-29
  68. ^ Ngạc Nhĩ Thái (1985), tr. 1326
  69. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 221
  70. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 229
  71. ^ a b Đỗ Gia Ký (2008), tr. 276
  72. ^ a b c d e Đỗ Gia Ký (2008), tr. 277
  73. ^ Lý Yến Quang & Quan Tiệp (2003), tr. 669
  74. ^ Đỗ Gia Ký (2008), tr. 276-277
  75. ^ Chu Thành Như (2002), tr. 334
  76. ^ Viện bảo tàng Hồ sơ Bắc Kinh (2007), tr. 323
  77. ^ Lý Trị Đình (1997), tr. 148
  78. ^ Trịnh Thiên Đỉnh (2009). Thanh sử giản thuật. Trung Hoa thư cục. ISBN 9787101047417.
  79. ^ Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, quyển 11, Vũ sự dư ký
  80. ^ Sở nghiên cứu lịch sử Cận đại, viện Khoa học - Xã hội Trung Quốc (2011), tr. 553, 555 - 556
  81. ^ Hội đồng biên soạn (2008), tr. 32
  82. ^ Elliott (2001), tr. 43
  83. ^ Lý Lâm (2006), tr. 121
  84. ^ Trương Giai Sinh (2008), tr. 230
  85. ^ Đàm Lê Minh; Dương Vĩnh Húc (ngày 1 tháng 5 năm 2009). “Từ Gia phổ xem kết cấu dân tộc của Mãn tộc” (bằng tiếng Trung). Sở nghiên cứu Thanh sử, Đại học Nhân dân Trung Quốc. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2017.
  86. ^ Phòng biên tập Từ điển, sở nghiên cứu Ngôn ngữ, viện Khoa học - Xã hội Trung Quốc (2005), tr. 1073
  87. ^ Bộ giáo dục Trung Hoa Dân quốc (2015). “Kỳ nhân”. 重编国语辞典修订本. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2017. Chú thích có tham số trống không rõ: |9= (trợ giúp)
  88. ^ Quất Huyền Nhã (9 tháng 4 năm 2014). “Tổng hợp về vấn đề người Bát kỳ xưng Nô tài”.

Tài liệuSửa đổi

Tiếng ViệtSửa đổi

Tiếng TrungSửa đổi

Tiếng AnhSửa đổi