Cá nóc răng mỏ chim

loài cá

Cá nóc răng mỏ chim,[2][3] tên khoa họcLagocephalus inermis, là một loài cá biển thuộc chi Lagocephalus trong họ Cá nóc. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1850.

Cá nóc răng mỏ chim
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Tetraodontiformes
Họ (familia)Tetraodontidae
Chi (genus)Lagocephalus
Loài (species)L. inermis
Danh pháp hai phần
Lagocephalus inermis
(Temminck & Schlegel, 1850)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Tetraodon inermis Temminck & Schlegel, 1850

Từ nguyên sửa

Tính từ định danh inermis trong tiếng Latinh có nghĩa là "không có vũ khí", hàm ý đề cập đến phần lưng và hai bên lườn không có gai như những loài cá nóc khác (chỉ có gai ở bụng).[4]

Phạm vi phân bố và môi trường sống sửa

Cá nóc răng mỏ chim có phạm vi phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Từ bờ biển Đông Phi, cá mỏ chim được phân bố trải dài về phía đông đến Philippines và đảo New Guinea, ngược lên phía bắc đến Hàn QuốcNhật Bản, xa về phía nam đến Úc.[1][5]

Cá nóc răng mỏ chim sinh sống ở các thềm lục địa, nơi có nền đáy bùn hoặc cát ở độ sâu khoảng từ 10 đến 200 m.[6]

Mô tả sửa

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá nóc răng mỏ chim là 90 cm.[6] Thân dưới màu trắng ánh bạc, đặc biệt là vùng bụng có nhiều gai nhỏ. Thân trên không có gai, có màu xanh lục xám. Nắp mang màu đen, khác biệt so với các loài Lagocephalus còn lại.[7]

Số tia vây ở vây lưng: 12–13; Số tia vây ở vây hậu môn: 10–12; Số tia vây ở vây ngực: 16–17.[7]

Cá nóc răng mỏ chim L. inermis thường bị nhầm với Lagocephalus laevigatusĐại Tây Dương. L. laevigatus thường có nhiều số tia ở hai vây hơn L. inermis, và gốc vây ngực của L. laevigatus có màu đen.[7]

Sinh thái học sửa

Việt Nam, cá nóc răng mỏ chim được đánh giá là loài có độc tính rất mạnh.[2] Hàm lượng độc tính của cá mỏ chim thường tăng cao từ tháng 6 đến tháng 9 hàng năm.[3]

Thương mại sửa

Tuy là loài cá kịch độc, cá nóc răng mỏ chim vẫn được đánh bắt để làm thực phẩm ở nhiều nơi trong phạm vi của chúng. Cá nóc răng mỏ chim cùng cá nóc bạccá nóc xanh là những loài mà tỉnh Kiên Giang (Việt Nam) được phép xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc.[8][9]

Ấn Độ, cá nóc răng mỏ chim được bán tươi sống sau khi cắt bỏ phần đầu, nội tạnglột da, hoặc được phơi khô và ướp muối để xuất khẩu.[10] Tại bờ biển tây nam Ấn Độ, sản lượng khai thác của loài này đang tăng dần,[11] mặc dù chúng cũng được xem là cá tạp tại vùng biển này.[12]

Tham khảo sửa

  1. ^ a b Shao, K.; Liu, M.; Jing, L.; Hardy, G.; Leis, J. L.; Matsuura, K. (2014). Lagocephalus inermis. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2014: e.T193717A2265832. doi:10.2305/IUCN.UK.2014-3.RLTS.T193717A2265832.en. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2022.
  2. ^ a b Nguyễn Văn Lệ, Nguyễn Hữu Hoàng, Bùi Thị Thu Hiền (2006). “Kết quả phân tích độc tố cá nóc biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Nghiên cứu Nghề cá biển. 4: 256–264. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  3. ^ a b Lê Doãn Dũng, Nguyễn Văn Hiếu, Trần Quốc Đảm (2017). “Hiện trạng nguồn lợi cá nóc biển Việt Nam và vấn đề sử dụng cá nóc ở nước ta” (PDF). Kỷ yếu kỷ niệm 35 năm thành lập Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP. Hồ Chí Minh (1982-2017): 158–166.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  4. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Tetraodontiformes: Families Triodontidae, Triacanthidae, Triacanthodidae, Diodontidae and Tetraodontidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2022.
  5. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Tetraodon inermis. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2022.
  6. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Lagocephalus inermis trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  7. ^ a b c Margaret M. Smith; Phillip C. Heemstra biên tập (1986). Smiths’ Sea Fishes. Nhà xuất bản Springer. tr. 901. ISBN 978-9251045893.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  8. ^ K.Giang (31 tháng 7 năm 2014). “Kiên Giang: Chỉ xuất khẩu cá nóc thành phẩm sang Hàn Quốc”. Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2022.
  9. ^ Ngọc Ánh; Kỳ Nam (24 tháng 3 năm 2016). “Vỡ mộng xuất khẩu cá nóc”. Báo Người Lao Động. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2022.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  10. ^ Pillai, K. Sasidharan (2009). “Lagocephalus inermis catch at Kollam - a new source of income to fishermen” (PDF). Marine Fisheries Information Service, Technical and Extension Series (201): 27.
  11. ^ Anju, Chakkalathara Venu; Dahanukar, Neelesh; Sidharthan, Arya; Ranjeet, Kutty; Raghavan, Rajeev (tháng 1 năm 2019). “Demographics of Lagocephalus inermis in the Arabian Sea unveils complex conservation challenges”. Journal of Fish Biology. 94 (1): 187–190. doi:10.1111/jfb.13873.
  12. ^ Dineshbabu, A. P.; Thomas, Sujitha; Radhakrishnan, E. V. (2012). “Spatio-temporal analysis and impact assessment of trawl bycatch of Karnataka to suggest operation based fishery management options” (PDF). Indian Journal of Fisheries. 59 (2): 27–38.