Cá nhiễm thủy ngân là thuật ngữ chỉ về hiện tượng các loài cá bị nhiễm chất thủy ngân thông qua nhiều hình thức khác nhau. Thông qua quá trình tích lũy sinh học mêtyl thủy ngân nằm trong chuỗi thức ăn, đạt đến mức tích lũy cao trong một số loài như cá ngừ. Các loài cá lớn như cá ngừ hay cá kiếm thông thường chứa nhiều thủy ngân hơn các loài cá nhỏ, do thủy ngân tích lũy tăng dần theo chuỗi thức ăn. Cá tuyết, cá hồi, cá tuyết chấm đen, cá tríchcá mòi được coi là các loại cá có mức thủy ngân thấp.[1] Ngược lại, cá kiếm, cá ngừ được cho là có nồng độ thủy ngân thường vượt quá mức an toàn.[1] Sự ngộ độc thủy ngân đối với con người là kết quả của việc tiêu thụ lâu dài một số loại lương thực, thực phẩm nào đó, thủy ngân có thể tác động làm thay đổi các hệ thống thần kinh và sinh sản của con người và động vật hoang dã.

Cá trích được cho là ít nhiễm phải thủy ngân

Tham khảo sửa

  • Sát thủ thầm lặng từ cá nhiễm thủy ngân
  • Cá nhiễm độc thủy ngân và bệnh lạ của người dân Nhật Lưu trữ 2016-04-27 tại Wayback Machine
  • Kidd K and Batchelar K (2011) "Mercury" In: Wood CM, Farrell AP and Brauner CJ, Fish Physiology: Homeostasis and Toxicology of Non-Essential Metals, pages 238–297. Academic Press. ISBN 9780123786340.
  • Lubick, N. (2009). “Ocean mercury on the increase”. Nature. doi:10.1038/news.2009.218.
  • Rasmussen, RS; Nettleton, J; Morrissey, MT (2005). “A Review of Mercury in Seafood: special focus on tuna” (PDF). Journal of Aquatic Food Product Technology. 14 (4): 71–100. doi:10.1300/J030v14n04_06. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2016.

Chú thích sửa

  1. ^ a b H.Trang (Theo Huffington Post) (2012). “Sát thủ thầm lặng từ cá nhiễm thủy ngân”. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2016.

Liên kết ngoài sửa