Cheilinus fasciatus

loài cá

Cheilinus fasciatus là một loài cá biển thuộc chi Cheilinus trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1791.

Cheilinus fasciatus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Cheilinus
Loài (species)C. fasciatus
Danh pháp hai phần
Cheilinus fasciatus
(Bloch, 1791)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Sparus fasciatus Bloch, 1791
  • Labrus enneacanthus Lacépède, 1801
  • Sparus bandatus Perry, 1810

Từ nguyên sửa

Tính từ định danh fasciatus trong tiếng Latinh có nghĩa là "có sọc", hàm ý đề cập đến các dải sọc trắng và xám đen xen kẽ ở hai bên thân của loài cá này.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống sửa

 
C. fasciatus

Từ bờ biển Đông Phi, C. fasciatus được phân bố rộng khắp các vùng biển thuộc khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, trải dài về phía đông đến quần đảo Marshall, quần đảo SamoaTonga, giới hạn phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), xa về phía nam đến Nouvelle-Calédonie, rạn san hô Great Barrier và hai bờ tây-đông Úc.[1][3] Quần thể ở Biển Đỏ đã được xác định là của Cheilinus quinquecinctus, một loài có kiểu hình rất giống với C. fasciatus và trước đây được xem là danh pháp đồng nghĩa của C. fasciatus.[4]

Việt Nam, loài này được ghi nhận tại vịnh Nha Trang (Khánh Hòa), đảo Phú Quốc,[5] quần đảo An Thới (Kiên Giang),[6] Côn Đảo,[7] bờ biển Ninh Thuận[8]Phú Yên,[9] cũng như tại quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa.[10]

C. fasciatus sống trên rạn viền bờ và trong đầm phá, nơi có san hô xen lẫn cátđá vụn ở độ sâu khoảng 4–60 m;[3] cá con có thể được tìm thấy trong thảm cỏ biển và vùng rừng ngập mặn gần các rạn san hô.[1]

Mô tả sửa

Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. fasciatus là 40 cm.[3] Chúng có bộ hàm rất chắc, hàm dưới đặc biệt nhô ra ở những cá thể trưởng thành. Mỗi hàm có hai răng nanh nằm ở phía trước.[11]

 
Vùng màu đỏ cam nổi bật ở thân trước của C. fasciatus

Cơ thể có các dải sọc màu nâu đen và trắng xen kẽ từ nắp mang đến vây đuôi (sọc đen thường dày hơn sọc trắng). Vùng màu đỏ cam ở thân trước từ gáy xuống ngực, lan rộng đến phía trước mắt (màu đỏ cam nhạt hơn nhiều ở cá cái). Vảy cá có các vạch đen (thấy rõ ở các dải sọc trắng).[11][12]

Ở cá đực, vây đuôi của C. fasciatus phát triển hai thùy đuôi dài ở rìa trên và dưới, trong khi vây đuôi của C. quinquecinctus có răng cưa ở rìa sau, tạo thành kiểu hình "rách rưới" đặc trưng (đây là đặc điểm dễ phân biệt nhất giữa hai loài[4]). Vùng màu đỏ cam ở thân trước của C. quinquecinctus lan rộng hơn đến giữa thân so với C. fasciatus. Thân dưới, nửa sau của vây đuôi cũng như trên vây lưng và vây hậu môn của C. fasciatus có nhiều chấm đỏ sẫm, tuy nhiên C. quinquecinctus không có bất kỳ đốm chấm nào ở những vị trí này. Xung quanh mắt của C. fasciatus có các vệt màu cam, và cũng không có ở C. quinquecinctus.[4]

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 12; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.[11]

Sinh thái học sửa

Thức ăn của C. fasciatus là các loài thủy sinh không xương sống có vỏ cứng, bao gồm động vật thân mềm, động vật giáp xáccầu gai nhờ sở hữu bộ hàm chắc khỏe.[1]

Thương mại sửa

C. fasciatus được xem là một loài hải sản và cũng được nuôi làm cá cảnh ở nhiều nơi trong phạm vi phân bố của chúng.[1][12]

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c d e Shea, S. & Liu, M. (2010). Cheilinus fasciatus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T187739A8617081. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187739A8617081.en. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, C.; Lazara, K. J. (2021). “Order Labriformes: Family Labridae (a-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.
  3. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cheilinus fasciatus trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  4. ^ a b c Bogorodsky, Sergey V.; Alpermann, Tilman J.; Mal, Ahmad O. (2016). “Redescription of Cheilinus quinquecinctus Rüppell, 1835 (Pisces: Perciformes, Labridae), a valid endemic Red Sea wrasse” (PDF). Zootaxa. 4158 (4): 451. doi:10.11646/zootaxa.4158.4.1. ISSN 1175-5334.
  5. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2002). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  6. ^ Nguyễn Hữu Phụng; Nguyễn Văn Long (1996). “Một số kết quả nghiên cứu cá rạn san hô ở An Thới (Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang)” (PDF). Tuyển tập nghiên cứu biển. 7: 84–93.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  7. ^ Trần Ngọc Cường biên tập (2013). “Thông Tin Về Đất Ngập Nước Ramsar (RIS) – Côn Đảo” (PDF). Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  8. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  9. ^ Nguyễn Văn Long (2013). “Nguồn lợi cá rạn san hô vùng biển ven bờ Phú Yên”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 13 (1): 31–40. ISSN 1859-3097.
  10. ^ Capuli, Estelita Emily; Parakikay, Timothy (biên tập). Cheilinus fasciatus (Bloch, 1791)”. FishBase. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  11. ^ a b c M. W. Westneat (2001). “Labridae”. Trong K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol. 6. Bony fishes part 4 (Labridae to Latimeriidae) (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3414. ISBN 978-9251045893.
  12. ^ a b Bray, D. J. (2021). “Redbreast Maori Wrasse, Cheilinus fasciatus (Bloch 1791)”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.