Chromis analis là một loài cá biển thuộc chi Chromis trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830.

Chromis analis
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Ovalentaria
Họ (familia)Pomacentridae
Chi (genus)Chromis
Loài (species)C. analis
Danh pháp hai phần
Chromis analis
(Cuvier, 1830)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Heliases analis Cuvier, 1830
  • Heliases macrochir Bleeker, 1853

Từ nguyên sửa

Tính từ định danh analis trong tiếng Latinh mang nghĩa là "ở hậu môn", hàm ý đề cập đến gai vây hậu môn thứ hai của loài cá này, được mô tả là "rất cứng và dài hơn các tia mềm phía sau" (bản dịch).[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống sửa

Từ vùng biển phía nam Nhật Bản, Hàn Quốcđảo Đài Loan, C. analis được phân bố trải dài về phía nam, băng qua vùng biển một số nước Đông Nam Á đến rạn san hô Great Barrier, về phía đông đến các đảo quốc thuộc MicronesiaMelanesia.[1]Việt Nam, loài này được ghi nhận tại vịnh Bắc Bộ, vịnh Nha Trangquần đảo Trường Sa.[3][4]

C. analis sống trên đới sườn dốc của rạn san hô viền bờ và nơi có nền đáy đá ở độ sâu khoảng 10–144 m.[5]

Mô tả sửa

 
C. analis kiểu hình thân nâu vây vàng

C. analis có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 17 cm.[5] Cơ thể hoàn toàn là màu vàng (vàng tươi hơn ở các vây), nhưng nhiều cá thể được bắt gặp có thân màu nâu (các vây vẫn màu vàng).[6][7]

Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 11–13; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 12–13; Số tia vây ở vây ngực: 17–18; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 16–19; Số lược mang: 23–28.[6]

Sinh thái học sửa

C. analis sống đơn độc hoặc theo từng nhóm nhỏ. Chúng ăn động vật phù du. Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc trứng; trứng có độ dính và bám vào nền tổ.[5]

Thương mại sửa

C. analis được thu thập trong các hoạt động buôn bán cá cảnh nhưng không phải loài được nhắm mục tiêu.[1]

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c Myers, R.; Rocha, L. A. & Jenkins, A. (2017). Chromis analis. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2017: e.T188382A1866813. doi:10.2305/IUCN.UK.2017-2.RLTS.T188382A1866813.en. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Series Ovalentaria (Incertae sedis): Family Pomacentridae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2022.[liên kết hỏng]
  3. ^ Capuli, Estelita Emily (biên tập). Chromis analis (Cuvier, 1830)”. FishBase. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2022.
  4. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2002). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  5. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Chromis analis trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  6. ^ a b John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 256. ISBN 978-0824818951.
  7. ^ Bray, D. J. (2020). “Yellow Puller, Chromis analis (Cuvier 1830)”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2022.