Dmitry Olegovich Jakovenko

(Đổi hướng từ Dmitry Jakovenko)

Dmitry Olegovich Jakovenko (tiếng Nga: Дмитрий Олегович Яковенко; sinh 29 tháng 6 năm 1983) là một đại kiện tướng cờ vua người Nga. Anh là nhà vô địch châu Âu năm 2012 và thành viên của đội tuyển Nga vô địch các giải đấu Giải cờ vua đồng đội thế giới 2009 và Giải cờ vua đồng đội châu Âu 2007 và 2015.

Dmitry Jakovenko
Jakovenko tại Dortmund năm 2009
TênDmitry Olegovich Jakovenko
Quốc gia Nga
Sinh29 tháng 6, 1983 (40 tuổi)
Nizhnevartovsk, Xô viết Nga, Liên Xô
Danh hiệuĐại kiện tướng (2001)
Elo FIDE2682 (7.2022) 2711 Hạng 33 (7.2019)
Elo cao nhất2760 (1.2009)
Thứ hạng cao nhấtHạng 5 (7.2009)

Sự nghiệp cờ vua sửa

Jakovenko học cờ vua từ cha mình khi lên 3 tuổi và sau đó được huấn luyện viên cũ của Garry Kasparov là Alexander Nikitin hướng dẫn. Năm 2001 anh vô địch hạng tuổi không quá 18 (U-18) tại Giải cờ vua trẻ thế giới[1] và giải Saint-Vincent mở rộng[2]. Jakovenko đồng điểm hạng nhất tại vòng chung kết giải vô địch quốc gia năm 2006, nhưng thua playoff trước Evgeny Alekseev[3], đồng hạng nhì tại Pamplona 2006/2007, Corus nhóm B 2007, và Aeroflot mở rộng 2007[4]. Anh vô địch giải Karpov Poikovsky (pl) mang tên vua cờ Anatoly KarpovPoikovsky, Khantia-Mansia, các năm 2007 và 2012[5].

Tại bảng xếp hạng FIDE tháng 7 năm 2009, Jakovenko đạt thứ hạng cao nhất trong sự nghiệp là hạng 5 thế giới, vượt qua Vladimir Kramnik để trở thành kỳ thủ số 1 quốc gia vào thời điểm đó[6]. Cùng tháng đó Jakovenko thi đấu tại Giải cờ vua Dortmund, về hạng tư sau khi xét hệ số phụ, đạt 5½/10 điểm, bằng điểm Peter LekoMagnus Carlsen và kém Kramnik nửa điểm[7].

Jakovenko vô địch châu Âu năm 2012 ở Plovdiv với điểm số 8½/11[8]. Anh vô địch giải đấu loại trực tiếp Cúp nước Nga các năm 2013[9], 2014[10], 2016[11] và 2017[12]. Tháng 12 năm 2014, Jakovenko về hạng nhì, sau Igor Lysyj, ở vòng chung kết Giải vô địch cờ vua Nga lần thứ 67 Kazan[13].

Năm 2015 Jakovenko đồng hạng nhất với Hikaru NakamuraFabiano Caruana tại giải đấu cuối cùng của chuỗi giải FIDE Grand PrixKhanty Mansiysk, đạt 6½/11 điểm[14], vô địch nếu xét hệ số phụ[15][16] và xếp thứ ba chung cuộc ở Grand Prix với 310 điểm[17]. Tháng 11 năm 2017, Jakovenko đồng hạng nhất với Levon Aronian ở giải đấu cuối cùng của chuỗi giải FIDE Grand Prix 2017, được tổ chức ở Palma, Majorca, vô địch nếu xét hệ số phụ[18].

Một số ván đấu tiêu biểu sửa

Chú thích sửa

  1. ^ Mark Crowther (5 tháng 11 năm 2011). “The Week in Chess 365”. The Week in Chess. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  2. ^ Mark Crowther (12 tháng 2 năm 2011). “The Week in Chess 327”. The Week in Chess. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  3. ^ “Evgeny Alekseev, 21, wins Russian Superfinal (Evgeny Alekseev, 21 tuổi, vô địch Siêu chung kết nước Nga)”. ChessBase. 16 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  4. ^ “Aeroflot Open 2007: Evgeny Alekseev wins in style (Aeroflot Open 2007: Evgeny Alekseev vô địch ấn tượng)”. ChessBase. 25 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  5. ^ “XV Karpov-Poikovsky starts with firebrand lineup (Giải Karpov-Poikovsky lần thứ 15 khởi đầu với danh sách tham dự thu hút)”. ChessBase. 13 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  6. ^ “Top 100 Players July 2009 - Archive (Lưu trữ top 100 kỳ thủ tháng 7 năm 2009)”. FIDE. 1 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  7. ^ “Dortmund 10: Kramnik wins Dortmund for the ninth time (Dortmund 2010: Kramnik vô địch Dortmund lần thứ chín)”. ChessBase. 12 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  8. ^ “13th European Individual Chess Championship 2012 (Kết quả chung cuộc Giải vô địch cờ vua cá nhân châu Âu lần thứ 13 năm 2012)”. Chess-Results. 31 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018.
  9. ^ Albert Silver (20 tháng 12 năm 2013). “Russian Cup gold for Jakovenko and Bodnaruk (Huy chương vàng Cúp nước Nga cho Jakovenko và Bodnaruk)”. ChessBase. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  10. ^ “Jakovenko Wins Russian Cup Again (Jakovenko lại vô địch Cúp nước Nga)”. Chess-News. 25 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  11. ^ “Dmitry Jakovenko Wins Russian Cup (Dmitry Jakovenko vô địch Cúp nước Nga)”. Liên đoàn cờ vua Nga. 12 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  12. ^ “Dmitry Jakovenko Wins Russian Cup Final (Dmitry Jakovenko thắng chung kết Cúp nước Nga)”. Liên đoàn cờ vua Nga. 12 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  13. ^ “Russian Super Finals - Lysyj and Gunina become 2014 Russian Champions (Siêu chung kết Nga - Lysyj và Gunina trở thành những nhà vô địch Nga năm 2014)”. FIDE. 7 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  14. ^ “Khanty Mansiysk GP: Caruana and Nakamura qualify for Candidates Tournament (GP Khanty Mansiysk: Caruana và Nakamura lọt vào Candidates)”. Chessdom. 27 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  15. ^ Mark Crowther (26 tháng 5 năm 2015). “FIDE Grand Prix Khanty-Mansiysk 2015”. The Week in Chess. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  16. ^ Eteri Kublashvili (1 tháng 6 năm 2015). “Dmitry Jakovenko: "I Always Perform Well in Khanty-Mansiysk" (Dmitry Jakovenko: "Tôi luôn chơi tốt ở Khanty-Mansiysk")”. Liên đoàn cờ vua Nga. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  17. ^ “Standings (Bảng xếp hạng chung cuộc Grand Prix 2014-2015)”. FIDE. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)
  18. ^ Mark Crowther (25 tháng 11 năm 2017). “Palma de Mallorca FIDE Grand Prix 2017”. The Week in Chess. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018. (tiếng Anh)

Liên kết ngoài sửa