AFC Champions League

Giải đấu bóng đá thường niên do Liên đoàn bóng đá châu Á tổ chức


AFC Champions League (được viết tắt là ACL) là giải đấu bóng đá thường niên được tổ chức bởi Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và có sự tham dự của các câu lạc bộ đạt thứ hạng cao tại các giải vô địch quốc gia của các nước châu Á. Đây là giải đấu cấp câu lạc bộ danh giá nhất châu Á, được tranh tài bởi các nhà vô địch quốc gia (đối với một số quốc gia có thể có một hoặc nhiều đội) của các hiệp hội bóng đá.[1]

AFC Champions League
Cơ quan tổ chứcAFC
Thành lập1967; 57 năm trước (1967)
(đổi tên thương hiệu năm 2002)
Khu vựcChâu Á
Số đội40 (vòng bảng)
Vòng loại choFIFA Club World Cup
Giải đấu
liên quan
Cúp AFC (hạng hai)
Đội vô địch
hiện tại
Nhật Bản Urawa Red Diamonds (danh hiệu thứ 3)
Câu lạc bộ
thành công nhất
Ả Rập Xê Út Al-Hilal (4 danh hiệu)
Trang webthe-afc.com/champions-league
AFC Champions League 2023–24

Được thành lập vào năm 1967 với tên gọi Giải bóng đá vô địch các câu lạc bộ châu Á (Asian Champion Club Tournament), giải đấu đã đổi thương hiệu và lấy tên hiện tại vào năm 2002 do sự hợp nhất giữa Asian Club Championship, Asian Cup Winners' CupSiêu cúp bóng đá châu Á.

Tổng cộng có 40 câu lạc bộ thi đấu theo thể thức vòng bảng của giải đấu. Các câu lạc bộ từ các giải đấu quốc gia mạnh nhất châu Á nhận được suất tham dự tự động, trong đó các câu lạc bộ từ các quốc gia có thứ hạng thấp hơn đủ điều kiện vượt qua vòng loại trực tiếp và họ cũng đủ điều kiện tham gia Cúp AFC. Đội vô địch AFC Champions League sẽ đủ điều kiện tham dự FIFA Club World Cup.

Câu lạc bộ thành công nhất giải đấu là Al-Hilal của Ả Rập Xê Út với tổng cộng bốn danh hiệu vô địch. Urawa Red Diamonds của Nhật Bản là nhà vô địch hiện tại, sau khi đánh bại Al-Hilal trong trận chung kết giải đấu năm 2022.

Lịch sử sửa

Các nhà vô địch
Mùa giải Vô địch
Asian Champion Club Tournament
1967   Hapoel Tel Aviv
1969   Maccabi Tel Aviv
1970   Esteghlal
1971   Maccabi Tel Aviv (2)
1972 Hủy bỏ
1973–1984: Không tổ chức
Asian Club Championship
1985–86   Daewoo Royals
1986   Furukawa Electric
1987   Yomiuri FC
1988–89   Al-Sadd
1989–90   Liêu Ninh
1990–91   Esteghlal (2)
1991   Al-Hilal
1992–93   PAS Tehran
1993–94   Ngân hàng Nông nghiệp Thái Lan
1994–95   Ngân hàng Nông nghiệp Thái Lan (2)
1995   Ilhwa Chunma
1996–97   Pohang Steelers
1997–98   Pohang Steelers (2)
1998–99   Júbilo Iwata
1999–2000   Al-Hilal (2)
2000–01   Suwon Samsung Bluewings
2001–02   Suwon Samsung Bluewings (2)
AFC Champions League
2002–03   Al-Ain
2004   Al-Ittihad
2005   Al-Ittihad (2)
2006   Jeonbuk Hyundai Motors
2007   Urawa Red Diamonds
2008   Gamba Osaka
2009   Pohang Steelers (3)
2010   Ilhwa Chunma (2)
2011   Al-Sadd (2)
2012   Ulsan Hyundai
2013   Quảng Châu Hằng Đại
2014   Western Sydney Wanderers
2015   Quảng Châu Hằng Đại (2)
2016   Jeonbuk Hyundai Motors (2)
2017   Urawa Red Diamonds (2)
2018   Kashima Antlers
2019   Al-Hilal (3)
2020   Ulsan Hyundai (2)
2021   Al-Hilal (4)
2022   Urawa Red Diamonds (3)
2023–24
AFC Champions League Elite
2024–25

1967–1972: Khởi đầu sửa

Bắt đầu với tên gọi Giải đấu vô địch các câu lạc bộ châu Á (Asian Champion Club Tournament), một giải đấu dành cho các nhà vô địch của các quốc gia AFC và có nhiều thể thức khác nhau, với giải đấu đầu tiên được tổ chức theo thể thức loại trực tiếp và ba giải đấu tiếp theo bao gồm một vòng bảng.

Trong khi các câu lạc bộ Israel thống trị bốn phiên bản đầu tiên của giải đấu, điều này một phần là do việc các câu lạc bộ Ả Rập từ chối thi đấu với họ:

  • Năm 1970, câu lạc bộ Lebanon Homenetmen đã từ chối thi đấu với Hapoel Tel Aviv trong trận bán kết, trận đấu đã bị hỗn loạn khi Hapoel tiến vào trận chung kết.
  • Năm 1971, Aliyat Al-Shorta của Iraq đã từ chối thi đấu với Maccabi Tel Aviv ba lần: ở vòng sơ loại (đã được bốc thăm lại), ở vòng bảng và ở trận chung kết, trận đấu bị hỗn loạn với việc Maccabi được trao chức vô địch.[2] Trong lễ trao giải cho Maccabi, các cầu thủ Aliyat Al-Shorta đã vẫy cờ Palestine quanh sân, trong khi giới truyền thông Iraq coi Aliyat Al-Shorta là đội vô địch giải đấu, với việc đội tổ chức diễu hành trên xe bus ở Baghdad.[3]

Sau khi giải đấu năm 1972 đã bị AFC hủy bỏ vì nhiều lý do, trong đó có hai câu lạc bộ Ả Rập bị loại vì từ chối thi đấu với câu lạc bộ Israel Maccabi Netanya, AFC đã đình chỉ giải đấu trong 14 năm, trong khi Israel bị trục xuất khỏi AFC vào năm 1974.

1985–2002: Giải vô địch bóng đá các câu lạc bộ châu Á sửa

Năm 1985-1986 đánh dấu sự trở lại của giải đấu cấp câu lạc bộ hàng đầu châu Á với tên gọi Giải vô địch bóng đá các câu lạc bộ châu Á (Asian Club Championship). Năm 1990, AFC cho ra mắt Cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Á (Asian Cup Winners Cup, thường được gọi là Cúp C2 châu Á), và đến năm 1995 là Siêu cúp bóng đá châu Á.

2002–2024: Kỷ nguyên Champions League sửa

Mùa giải 2002-03 chứng kiến Giải vô địch các câu lạc bộ châu Á, Cúp C2 châu ÁSiêu cúp bóng đá châu Á sáp nhập để trở thành AFC Champions League. Vòng sơ loại theo thể thức đấu loại trực tiếp sẽ chọn ra 8 đội mạnh nhất cùng với 8 câu lạc bộ xuất sắc nhất từ 2 khu vực phía đôngtây châu Á tiến vào vòng bảng. Trong mùa giải đầu tiên dưới tên gọi AFC Champions League, Al-Ain đánh bại BEC Tero với tỉ số 2–1 để trở thành nhà vô địch. Giải đấu sau đó đã bị hoãn lại 1 năm do virus SARS.

Giải đấu đã được tái ra mắt vào năm 2004 với 29 câu lạc bộ tới từ 14 quốc gia. Không giống như các năm trước, lịch thi đấu đã được thay đổi và diễn ra từ tháng 3 đến tháng 11. Trong giai đoạn đầu của giải, 28 câu lạc bộ được chia thành 7 nhóm, mỗi nhóm bao gồm 4 đội đến từ cùng 1 khu vực (Đông ÁTây Á) để giảm chi phí đi lại, với các trận đấu vòng bảng diễn ra theo thể thức sân nhà và sân khách. Sau đó, 7 đội bóng đứng đầu mỗi nhóm cùng với đương kim vô địch vào vòng tứ kết. Các vòng tứ kết, bán kết và trận chung kết diễn ra theo hình thức lượt đi-lượt về, có áp dụng luật bàn thắng sân khách, hiệp phụloạt sút luân lưu như loạt tie-break.

Mùa giải 2005, các câu lạc bộ của Syria bắt đầu tham gia vào giải đấu. 2 năm sau, đến lượt các câu lạc bộ của Úc cũng tham gia giải đấu khi Úc gia nhập AFC vào năm 2006. Do sự thiếu chuyên nghiệp trong bóng đá tại châu Á, nhiều vấn đề vẫn còn tồn tại trong các giải đấu, chẳng hạn như về bạo lực sân cỏ hay chậm nộp danh sách đăng ký cầu thủ. Nhiều người đã đổ lỗi cho việc tiền thưởng ít cùng chi phí đi lại đắt đỏ như là 1 lý do.

Champions League năm 2009 mở rộng lên 32 câu lạc bộ với 10 giải đấu vô địch quốc gia hàng đầu châu Á sẽ có các câu lạc bộ được vào trực tiếp vòng bảng. Mỗi quốc gia có tối đa 4 đội tham dự, mặc dù không bằng một phần 3 số đội tham gia tại giải đấu cao nhất của mỗi quốc gia, tuy nhiên điều này sẽ tùy thuộc vào giải vô địch của quốc gia đó, cấu trúc giải đấu (chuyên nghiệp), tiếp thị, tài chính, và các tiêu chuẩn khác do Ủy ban AFC Pro-League đưa ra mà sẽ đưa ra quyết định về số đội bóng được tham dự từ giải đấu đó.[4] Các tiêu chí đánh giá và xếp hạng giải đấu cho các quốc gia thành viên tham gia sẽ được AFC điều chỉnh 2 năm 1 lần.[5]

Giải thưởng đã được tăng lên đáng kể từ mùa giải 2009 và các câu lạc bộ có thể kiếm được 1 khoản tiền thưởng ngay cả ở vòng bảng tùy thuộc vào hiệu suất của họ. Phân nhóm được tiến hành theo cách thức giống như 4 giải đấu trước đó, tức là vẫn theo khu vực ĐôngTây Á với bốn bảng của mỗi khu vực. Vòng 16 đội vẫn tiến hành theo thể thức khu vực, tức là 4 đội nhất và 4 đội nhì trong cùng một khu vực sẽ tiến hành thi đấu 1 trận duy nhất để tìm ra 4 đội xuất sắc nhất của mỗi khu vực vào vòng tứ kết. Vòng tứ kết và bán kết sẽ diễn ra theo thể thức lượt đi và về còn trận chung kết sẽ diễn ra một trận duy nhất tại sân trung lập được lựa chọn từ trước.

Western Sydney Wanderers trở thành câu lạc bộ đầu tiên của Úc vô địch của AFC Champions League sau khi họ đánh bại Al-Hilal 1–0 trong trận chung kết 2014.

Năm 2021, vòng bảng được mở rộng từ 32 lên 40 đội, cả hai khu vực phía Tây và phía Đông đều có năm bảng bốn đội. Sự phân bổ vị trí cho sáu hiệp hội thành viên hàng đầu ở mỗi khu vực vẫn không thay đổi.[6]

Từ 2024–25: Kỷ nguyên Champions League Elite sửa

Thể thức giải đấu sửa

 
Bản đồ các quốc gia AFC có đội lọt vào vòng bảng AFC Champions League (được hiển thị màu xanh lá). Các quốc gia chưa bao giờ có đại diện lọt vào ACL được hiển thị màu xanh dương.

Vòng loại sửa

Kể từ giải đấu năm 2009, AFC Champions League đã bắt đầu với thể thức vòng bảng kép gồm 32 đội, trước đó là các trận đấu vòng loại dành cho các đội không được vào thẳng giải đấu. Các đội cũng được chia thành các khu vực phía đông và phía tây.

Số lượng câu lạc bộ của mỗi hiệp hội tham dự AFC Champions League được xác định hàng năm thông qua các tiêu chí do Ủy ban Cạnh tranh AFC đặt ra[7]. Các tiêu chí, là một phiên bản sửa đổi của hệ số UEFA, sẽ được dùng để xác định số lượng suất cụ thể mà một hiệp hội nhận được. Xếp hạng của hiệp hội càng cao theo tiêu chí xác định thì càng có nhiều đội đại diện cho hiệp hội đó ở Champions League và càng ít vòng loại mà các đội của hiệp hội phải thi đấu.

Giải đấu sửa

Giải đấu bắt đầu với vòng bảng gồm 40 đội, được chia thành mười bảng đấu. Hạt giống được sử dụng khi thực hiện bốc thăm cho giai đoạn này, với các đội từ cùng một quốc gia không được xếp vào cùng bảng với nhau. Vòng bảng được chia thành hai khu vực; khu vực đầu tiên là năm bảng Đông Á và khu vực khác là năm bảng Tây Á. Mỗi đội gặp những đội khác trong bảng đấu của mình theo hình thức vòng tròn hai lượt tính điểm. Đội nhất và nhì từ mỗi bảng tiến vào vòng tiếp theo.

Ở vong tiếp theo, đội nhất từ một bảng thi đấu với đội nhì từ một bảng khác cùng khu vực. Giải đấu sử dụng luật bàn thắng sân khách: nếu tổng tỷ số của hai trận đấu bằng nhau sau 180 phút, đội nào ghi được nhiều bàn thắng hơn ở sân của đối thủ sẽ đi tiếp. Nếu số bàn thắng sân khách bằng nhau, các câu lạc bộ sẽ thi đấu thêm hai hiệp phụ, và luật bàn thắng sân khách không còn được áp dụng. Nếu tổng tỉ số vẫn bằng nhau sau hiệp phụ, trận đấu sẽ được quyết định bởi loạt sút luân lưu. Các đội cùng khu vực (Đông hoặc Tây Á) tiếp tục thi đấu với nhau cho đến trận chung kết.[8]

Các trận đấu ở vòng bảng và vòng 16 đội diễn ra trong nửa đầu năm (tháng 2 - tháng 5). Các trận đấu ở vòng đấu loại trực tiếp sau đó diễn ra trong nửa cuối năm (tháng 8 - tháng 11). Các trận đấu loại trực tiếp áp dụng thể thức hai lượt, bao gồm cả trận chung kết.

Các quốc gia tham dự sửa

Các đội tham dự tới từ 19 quốc gia thành viên AFC đã qua được vòng sơ loại của AFC Champions League. Việc phân chia các đội của các nước thành viên được liệt kê dưới đây; dấu sao là có ít nhất một đội bóng đã bị loại khi đá tại vòng sơ loại. 32 quốc gia của AFC đã từng có các diện tham gia, và các quốc gia chưa bao giờ có đội bóng đá tại vòng bảng không được hiển thị.

Quốc gia tham dự Mùa giải
2002–03 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022–23 2023–24
Đông Á và Đông Nam Á
  Úc 2 2 2 2 2 3* 1 3* 2 2 3* 2 2 3* 0 2 1
  Trung Quốc 2 2 2 2 2 2 4 4 4 3 4 4 4 4 3* 4 4 4 2 2
  Hồng Kông 0* 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0* 0* 0* 1* 1* 0* 0* 1 1
  Indonesia 0* 2 2 0 2 0 1* 1* 1* 0* 0 0 0* 0 0 0* 0* 0* 0 0
  Nhật Bản 2 2 2 2 2 3 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 3* 4 4*
  Hàn Quốc 2 2 2 2 3 2 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4*
  Malaysia 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0* 0* 0* 0* 1* 1* 1 1 1
  Philippines 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0* 0* 0* 0* 2* 1 1
  Singapore 0* 0 0 0 0 0 1 1 0 0 0 0* 0* 0* 0* 0* 0* 0* 1 1 1
  Thái Lan 2 2 2 0 1 2 0* 0* 0* 1* 2 1* 1* 1* 1* 1* 1* 1* 4 2*
  Việt Nam 0* 2 2 2 1 2 0 0* 0 0 0 0* 1* 1* 0* 0* 0* 0* 1 1
Tổng cộng 8 12 12 8 13 13 16 16 15 15 15 16 16 16 16 16 16 16 20 19
Tây Á
  Ấn Độ 0* 0 0 0 0 0 0* 0* 0* 0 0 0* 0* 0* 0* 0* 0* 0* 1 1 1
  Ả Rập Saudi 1* 2 3 3 2 2 4 4 4 3* 4 4 4 4 4 2 4 4 3 4*
  Bahrain 0* 2 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0* 0* 0 0 0* 0 0* 0 0
  Iran 2 2 2 2 1 2 4 4 4 3* 3* 4 4 3* 4 4 3* 4 4 2
  Iraq 1* 2 2 2 2 2 0 0 0 0 0 0* 0 0 0 0 1* 1* 2 2* 1
  Kuwait 0* 1 2 2 2 2 0 0 0 0 0 0* 0* 0 0 0 0* 0* 0 3*
  Qatar 1* 2 2 2 2 2 2 2 3 4 4 4 2* 2* 2* 4 3* 2* 3 4
  Syria 0* 0 2 2 2 2 0 0* 0* 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1*
  Tajikistan 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0* 0* 1 1 1
  Turkmenistan 1* 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1
  UAE 1* 3 2 2 2 2 4 4 4 4 4 3* 2* 3* 4 4 3* 4 3 0
  Uzbekistan 1* 2 2 2 2 2 2 2 2 3* 2* 1* 4 4 2* 2* 2* 1* 2 2*
Tổng cộng 8 16 17 17 15 16 16 16 17 17 17 16 16 16 16 16 16 16 20 20
Tổng cộng
Chung kết 16 28 29 25 28 29 32 32 32 32 32 32 32 32 32 32 32 32 40 39
Vòng loại 53 28 29 25 28 29 35 37 36 37 35 47 49 45 47 46 51 52 50 43

Tiền thưởng sửa

Dưới đây là tiền thưởng cho AFC Champions League 2021.[9]

Giai đoạn Thưởng Hỗ trợ đi lại (cho mỗi trận)
Vòng sơ loại Không $ 30.000
Vòng playoff Không $ 30.000
Vòng bảng Thắng: 50.000 USD

Hòa: 10.000 USD

$ 45,000
Vòng 16 đội 100.000 USD $ 45,000
Tứ kết 150.000 USD $ 45,000
Bán kết 250.000 USD $ 45,000
Chung kết Vô địch: 4.000.000 USD

Á quân: 2.000.000 USD

$ 90,000

Tiếp thị sửa

Tài trợ sửa

 
Chiếc cúp của giải đấu từ năm 2009, sau khi thiết kế lại logo.

Giống như FIFA World Cup, AFC Champions League được tài trợ bởi một nhóm các tập đoàn đa quốc gia, trái với một nhà tài trợ chính duy nhất thường thấy ở các giải đấu hàng đầu quốc gia.

Các nhà tài trợ chính hiện tại của giải đấu là:

Trò chơi điện tử sửa

Konami với loạt game Pro Evolution Soccer[13] đang là đơn vị nắm bản quyền cho trò chơi điện tử AFC Champions League cũng như các đội thi đấu.

Hồ sơ và số liệu thống kê sửa

Đội vô địch sửa

Câu lạc bộ Số lần vô địch Số lần giành Á quân Năm vô địch Năm giành Á quân
  Al-Hilal 4 5 1991, 1999–2000, 2019, 2021 1986, 1987, 2014, 2017, 2022–23
  Pohang Steelers 3 1 1996–97, 1997–98, 2009 2021
  Urawa Red Diamonds 3 1 2007, 2017, 2022–23 2019
  Esteghlal 2 2 1970, 1990–91 1991, 1998–99
  Seongnam FC 2 2 1995, 2010 1996–97, 2004
  Al-Ittihad 2 1 2004, 2005 2009
  Jeonbuk Hyundai Motors 2 1 2006, 2016 2011
  Maccabi Tel Aviv2 2 0 1969, 1971
  Al Sadd 2 0 1988–89, 2011
  Ngân hàng Nông nghiệp Thái Lan1 2 0 1993–94, 1994–95
  Suwon Samsung Bluewings 2 0 2000–01, 2001–02
  Ulsan Hyundai 2 0 2012, 2020
  Quảng Châu 2 0 2013, 2015
  Júbilo Iwata 1 2 1998–99 1999–2000, 2000–01
  Al-Ain 1 2 2002–03 2005, 2016
  Hapoel Tel Aviv2 1 1 1967 1970
  Liêu Ninh Hoành Vận1 1 1 1989–90 1990–91
  Busan IPark 1 0 1985–86
  JEF United Chiba 1 0 1986
  Tokyo Verdy 1 0 1987
  PAS Tehran1 1 0 1992–93
  Gamba Osaka 1 0 2008
  Western Sydney Wanderers 1 0 2014
  Kashima Antlers 1 0 2018
  Al-Ahli 0 2 1985–86, 2012
  FC Seoul 0 2 2001–02, 2013
  Persepolis 0 1 2018
  Selangor 0 1 1967
  Yangzee1 0 1 1969
  Al-Shorta 0 1 1971
  Al-Rasheed1 0 1 1988–89
  Yokohama F. Marinos 0 1 1989–90
  Al-Shabab 0 1 1992–93
  Oman Club 0 1 1993–94
  Al-Arabi 0 1 1994–95
  Al-Nassr 0 1 1995
  Đại Liên1 0 1 1997–98
  BEC Tero Sasana 0 1 2002–03
  Al-Karamah 0 1 2006
  Sepahan 0 1 2007
  Adelaide United 0 1 2008
  Zob Ahan Esfahan 0 1 2010
  Shabab Al-Ahli 0 1 2015
1 Câu lạc bộ hiện không còn tồn tại
2 Năm 1974, Hiệp hội bóng đá Israel bị khai trừ khỏi AFC do áp lực chính trị, và đã trở thành một thành viên đầy đủ của UEFA trong năm 1994. Kết quả là các câu lạc bộ của Israel không còn tham gia vào các giải đấu AFC nữa.

Quốc gia sửa

Bảng danh sách quốc gia xếp theo số lượng câu lạc bộ giành chức vô địch và á quân tại AFC Champions League.

Quốc gia Vô địch Á quân Tổng cộng
  Hàn Quốc 12 7 19
  Nhật Bản 8 4 12
  Ả Rập Xê Út 6 10 16
  Iran 3 6 9
  Trung Quốc 3 2 5
  Israel 3 1 4
  Qatar 2 1 3
  Thái Lan 2 1 3
  UAE 1 3 4
  Úc 1 1 2
  Iraq 0 2 2
  Malaysia 0 1 1
  Oman 0 1 1
  Syria 0 1 1

Khu vực sửa

Liên đoàn (Khu vực) Lần vô địch Tổng
EAFF (Đông Á) Đông Á 23 26
AFF (Đông Nam Á) 3
WAFF (Tây Á) Tây Á 9 12
CAFA (Trung Á) 3
SAFF (Nam Á) 0

Ghi chú: Danh sách không bao gồm các câu lạc bộ Israel, đội vô địch mùa giải 1967, 19691971.

Giải thưởng sửa

Cầu thủ xuất sắc nhất giải sửa

Năm Cầu Thủ Câu Lạc Bộ Nguồn
1996–97   An Ik-soo   Pohang Steelers [14]
1997–98   Ahmed Al-Dokhi   Al-Hilal [15]
1998–99   Seydou Traoré   Al-Ain [16]
1999–2000   Sérgio Ricardo   Al-Hilal [17]
2000–01   Zoltan Sabo   Suwon Samsung Bluewings [18]
2001–02
2002–03   Therdsak Chaiman   BEC Tero Sasana [19]
2004   Redha Tukar   Al-Ittihad [20]
2005   Mohammed Noor [21]
2006   Choi Jin-cheul   Jeonbuk Hyundai Motors [22]
2007   Yuichiro Nagai   Urawa Red Diamonds
2008   Yasuhito Endō   Gamba Osaka
2009   No Byung-jun   Pohang Steelers [23]
2010   Sasa Ognenovski   Seongnam Ilhwa Chunma [24]
2011   Lee Dong-gook   Jeonbuk Hyundai Motors [25]
2012   Lee Keun-ho   Ulsan Hyundai [26]
2013   Muriqui   Quảng Châu Hằng Đại [27]
2014   Ante Covic   Western Sydney Wanderers [28]
2015   Ricardo Goulart   Quảng Châu Hằng Đại [29]
2016   Omar Abdulrahman   Al-Ain [30]
2017   Yōsuke Kashiwagi   Urawa Red Diamonds [31]
2018   Yuma Suzuki   Kashima Antlers [32]
2019   Bafétimbi Gomis   Al-Hilal [33]
2020   Yoon Bit-garam   Ulsan Hyundai [34]
2021   Salem Al-Dawsari   Al-Hilal [35]
2022–23   Hiroki Sakai   Urawa Red Diamonds [36]

Vua phá lưới sửa

Năm Cầu Thủ Câu Lạc Bộ Bàn Thắng
2002–03   Hao Haidong   Đại Liên 9
2004   Kim Do-hoon   Seongnam Ilhwa Chunma 9
2005   Mohamed Kallon   Al-Ittihad 6
2006   Magno Alves   Gamba Osaka 8
2007   Mota   Seongnam Ilhwa Chunma 7
2008   Nantawat Tansopa   Krung Thai Bank 9
2009   Leandro   Gamba Osaka 10
2010   Jose Mota   Suwon Samsung Bluewings 9
2011   Lee Dong-gook   Jeonbuk Hyundai Motors 9
2012   Ricardo Oliveira   Al-Jazira 12
2013   Muriqui   Quảng Châu Hằng Đại 13
2014   Asamoah Gyan   Al-Ain 12
2015   Ricardo Goulart   Quảng Châu Hằng Đại 8
2016   Adriano   FC Seoul 13
2017   Omar Kharbin   Al-Hilal 10
2018   Baghdad Bounedjah   Al-Sadd 13
2019   Bafétimbi Gomis   Al-Hilal 11
2020   Abderrazak Hamdallah[37]   Al Nassr 7
2021   Michael Olunga[38]   Al-Duhail 9
2022–23   Edmilson Junior[39] 8

Đội đoạt giải Fairplay sửa

Năm Câu lạc bộ
2007   Urawa Red Diamonds
2008   Gamba Osaka
2009   Pohang Steelers
2010   Seongnam Ilhwa Chunma
2011   Jeonbuk Hyundai Motors
2012   Ulsan Hyundai
2013   FC Seoul
2014   Al-Hilal
2015   Quảng Châu Hằng Đại
2016   Al-Ain
2017   Urawa Red Diamonds
2018   Persepolis
2019   Urawa Red Diamonds
2020   Ulsan Hyundai[40]
2021   Al-Hilal[41]
2022–23   Urawa Red Diamonds

Xem thêm sửa

Tham khảo sửa

  1. ^ “AFC Champions League: The drama, the glory...”. the-AFC.com (bằng tiếng Anh). 17 tháng 2 năm 2015. Truy cập 12 tháng Bảy năm 2021.
  2. ^ Amitsur, D. (22 tháng 8 năm 1971). “The Arabs' leg up to Israel in Asian football” (bằng tiếng Do Thái). Davar.
  3. ^ “Al-Mal'ab Newspaper - April 1971 - Champions of Asia Return to Baghdad”. Kooora (bằng tiếng Ả Rập). tháng 4 năm 1971. Bản gốc lưu trữ 25 tháng Bảy năm 2020. Truy cập 20 Tháng mười hai năm 2017.
  4. ^ “Assessment and participation criteria for 2009–2010 seasons” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2008. Truy cập 3 tháng Năm năm 2015.
  5. ^ Criteria for Participation in AFC Club Competitions for 2011–2012 seasons
  6. ^ “AFC to invest in new era of national team and club competitions”. AFC. 26 tháng 10 năm 2019. Bản gốc lưu trữ 5 Tháng hai năm 2020. Truy cập 27 Tháng Một năm 2022.
  7. ^ “AFC ExCo okays ACL slots, format”. The-afc.com. Bản gốc lưu trữ 3 Tháng mười hai năm 2013. Truy cập 4 tháng Bảy năm 2014.
  8. ^ "AFC ExCo okays ACL slots, format". The-afc.com. Archived from the original on ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014”. Lưu trữ bản gốc 3 Tháng mười hai năm 2013.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  9. ^ AFC Champions League 2021 Competition Regulations. Asian Football Confederation. tr. 68. Truy cập 2 Tháng mười một năm 2021.
  10. ^ “AFC and NEOM announce four-year global sponsorship rights deal” (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). Asian Football Confederation. Truy cập 8 Tháng tư năm 2021.
  11. ^ “AFC and KONAMI sign new sponsorship and licensing deal” (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). Asian Football Confederation. Truy cập 25 Tháng Một năm 2021.
  12. ^ “AFC appoints world-leading ball manufacturer Molten as official match ball supplier”. www.the-afc.com (bằng tiếng Anh). Truy cập 24 tháng Mười năm 2018.
  13. ^ “PES 2016 licenses revealed!”. Pro Evolution Soccer. Bản gốc lưu trữ 18 tháng Chín năm 2015. Truy cập 5 tháng Năm năm 2016.
  14. ^ “1996 ASIAN CLUB CHAMPIONSHIP”. Asian Football Confederation. 7 tháng 7 năm 1997. Bản gốc lưu trữ 7 tháng Bảy năm 1997.
  15. ^ “الدوخي أفضل لاعب في البطولة”. al-jazirah.com (bằng tiếng Ả Rập). Lưu trữ bản gốc 2 tháng Chín năm 2021. Truy cập 2 tháng Chín năm 2021.
  16. ^ “Asian Club Championship 18th Edition 1998/99”. Asian Football Confederation. 22 tháng 4 năm 1999. Bản gốc lưu trữ 22 Tháng tư năm 1999.
  17. ^ “مالي الدنيا وشاغل الناس خطف الكأس”. al-jazirah.com (bằng tiếng Ả Rập). 24 tháng 4 năm 2000. Bản gốc lưu trữ 2 tháng Chín năm 2021. Truy cập 2 tháng Chín năm 2021.
  18. ^ “수원 삼성, 아시아클럽축구 평정”. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). 27 tháng 5 năm 2001. Bản gốc lưu trữ 7 Tháng sáu năm 2021. Truy cập 14 tháng Chín năm 2021.
  19. ^ “AFC Champions League – MVP Memories: Therdsak Chaiman”. the-afc.com. Asian Football Confederation. 11 tháng 10 năm 2020. Truy cập 19 Tháng mười hai năm 2020.
  20. ^ “Shandong Luneng suffer 7–2 blow at Champions League”. China Daily. 22 tháng 9 năm 2005. Truy cập 20 Tháng mười hai năm 2020.
  21. ^ “Preparation was vital for MVP Noor”. Asian Football Confederation. 5 tháng 11 năm 2005. Bản gốc lưu trữ 7 Tháng mười một năm 2005.
  22. ^ “전북 현대 AFC 챔피언스리그 우승”. Yonhap News Agency (bằng tiếng Hàn). 9 tháng 11 năm 2006. Bản gốc lưu trữ 2 tháng Chín năm 2021. Truy cập 2 tháng Chín năm 2021.
  23. ^ “Triple treat for Steelers”. AFC. Asian Football Confederation. 7 tháng 11 năm 2009. Bản gốc lưu trữ 15 tháng Chín năm 2018. Truy cập 7 Tháng mười một năm 2009.
  24. ^ “Ognenovski crowned AFC player of the year”. FIFA. 24 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ 7 Tháng mười hai năm 2010. Truy cập 5 Tháng Một năm 2013.
  25. ^ “Double delight for Lee”. The-AFC.com. Asian Football Confederation. 5 tháng 11 năm 2011. Truy cập 5 Tháng mười một năm 2011.
  26. ^ “Livewire Lee name MVP”. AFC. 10 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ 17 Tháng mười một năm 2012.
  27. ^ “Triple delight for Muriqui”. AFC. 10 tháng 11 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  28. ^ “Custodian Covic named Most Valuable Player”. AFC. 2 tháng 11 năm 2014.
  29. ^ “Hotshot Goulart adds awards to ACL title success”. AFC. 22 tháng 11 năm 2015.
  30. ^ “Omar Abdulrahman lands AFC Champions League 2016 MVP award”. AFC. 27 tháng 11 năm 2016. Truy cập 6 Tháng mười một năm 2016.
  31. ^ “Yosuke Kashiwagi clinches AFC Champions League MVP Award”. AFC. 25 tháng 11 năm 2017. Truy cập 25 Tháng mười một năm 2017.
  32. ^ “Yuma Suzuki of Kashima named 2018 MVP”. AFC. 10 tháng 11 năm 2018.
  33. ^ “Al Hilal's Gomis wins MVP, Top Scorer awards”. Asian Football Confederation. 24 tháng 11 năm 2019. Truy cập 24 Tháng mười một năm 2019.
  34. ^ “Ulsan Hyundai's Yoon Bit-garam named 2020 AFC Champions League MVP”. the-afc.com. Asian Football Confederation. 19 tháng 12 năm 2020. Bản gốc lưu trữ 30 Tháng Một năm 2021. Truy cập 19 Tháng mười hai năm 2020.
  35. ^ “Al-Hilal reign in Asia after tale of two Al-Dawsaris in AFC Champions League triumph”. Arab News (bằng tiếng Anh). 24 tháng 11 năm 2021. Truy cập 24 Tháng mười một năm 2021.
  36. ^ “Urawa's Hiroki Sakai crowned Most Valuable Player”. the-AFC (bằng tiếng Anh). Truy cập 8 tháng Năm năm 2023.
  37. ^ “Al Nassr's Abderrazak Hamdallah wins 2020 AFC Champions League Top Scorer award”. the-afc.com. Asian Football Confederation. 19 tháng 12 năm 2020. Bản gốc lưu trữ 17 Tháng tư năm 2021. Truy cập 19 Tháng mười hai năm 2020.
  38. ^ “Kenya's Michael Olunga wins AFC Champions League Golden Boot”. The East African (bằng tiếng Anh). 24 tháng 11 năm 2021. Truy cập 24 Tháng mười một năm 2021.
  39. ^ “Al Duhail's Edmilson Junior scoops Top Scorer Award”. the-AFC (bằng tiếng Anh). Truy cập 8 tháng Năm năm 2023.
  40. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên 2020mvp2
  41. ^ “Salem Al-Dosari is the best player in Asia”. Asume Tech. 24 tháng 11 năm 2021. Truy cập 24 Tháng mười một năm 2021.

Liên kết ngoài sửa