Không quân Hoàng gia Úc

(Đổi hướng từ Không quân Hoàng gia Australia)

Lực lượng Không quân Hoàng gia Úc (Royal Australian Air Force - RAAF), được thành lập vào tháng 3 năm 1921, là chi nhánh tác chiến trên không của Lực lượng Phòng vệ Úc (ADF). Nó vận hành phần lớn các máy bay cánh cố định của ADF, mặc dù cả Quân đội ÚcHải quân Hoàng gia Úc cũng vận hành máy bay với nhiều vai trò khác nhau.[1][2] Nó trực tiếp tiếp nối truyền thống của Quân đoàn bay Úc(AFC), được thành lập vào ngày 22 tháng 10 năm 1912.[3] RAAF cung cấp hỗ trợ trên nhiều hoạt động như chiếm ưu thế trên không, tấn công chính xác, tình báo, giám sát và trinh sát, cơ động trên không, giám sát không gian và hỗ trợ nhân đạo.

Royal Australian Air Force
Tập tin:RAAF Badge.svg
Thành lập31 tháng 3 năm 1921; 103 năm trước (1921-03-31)
Quốc gia Australia
Phân loạiKhông quân
Chức năngTác chiến trên không
Quy mô14,313 quân thường trực [1]
5,499 quân dự bị
309 máy bay
Bộ phận củaLực lượng Quốc phòng Úc
Tổng hành dinhRussell Offices
Khẩu hiệutiếng Latinh: Per ardua ad astra
"Vượt qua nghịch cảnh để hướng tới các vì sao"
Hành khúcRoyal Air Force March Past
Lễ kỷ niệmNgày thành lập không quân (31 tháng 3)
Tham chiến
Websitewww.airforce.gov.au Sửa dữ liệu tại Wikidata
Các tư lệnh
Tổng tư lệnhToàn quyền Úc David Hurley
Tham mưu trưởngNguyên soái Mel Hupfeld
Phó tham mưu trưởngĐại tướng Stephen Meredith
Tư lệnh không quânĐại tướng Joe Iervasi
Sĩ quan bảo đảm không quânThượng sĩ Fiona Grasby
Huy hiệu
Logo
Phù hiệu trên thân máy bay
Cờ hiệu
Phi cơ sử dụng
Tác chiến
điện tử
Boeing EA-18G Growler, Boeing 737 AEW&C
Tiêm kíchMcDonnell Douglas F/A-18 Hornet, Boeing F/A-18E/F Super Hornet, Lockheed Martin F-35 Lightning II
Máy bay trực thăngAgustaWestland AW139
Tuần traLockheed AP-3C Orion, Boeing P-8 Poseidon
Huấn luyệnPilatus PC-21, BAE Systems Hawk, Beechcraft Super King Air
Vận tảiLockheed Martin C-130J Super Hercules, Boeing C-17 Globemaster III, Boeing 737, Dassault Falcon 7X, Airbus A330 MRTT, Alenia C-27J Spartan

RAAF đã tham gia vào nhiều cuộc xung đột lớn của thế kỷ 20. Trong những năm đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai, một số phi đội máy bay ném bom, máy bay chiến đấu, trinh sát và các phi đội khác của RAAF đã phục vụ tại Anh, và cùng Lực lượng không quân sa mạc ở Bắc Phi và Địa Trung Hải. Từ năm 1942, nhiều đơn vị RAAF đã được thành lập tại Úc và tham chiến ở Khu vực Tây Nam Thái Bình Dương. Hàng nghìn người Úc cũng phục vụ trong các lực lượng không quân Khối thịnh vượng chung khác ở châu Âu, kể cả trong cuộc tấn công bằng máy bay ném bom chống lại Đức.[4] Vào thời điểm chiến tranh kết thúc, có tổng cộng 216.900 nam giới và phụ nữ phục vụ trong RAAF, trong đó 10.562 người đã thiệt mạng khi chiến đấu.[5]

Sau đó, RAAF đã phục vụ trong Không vận Berlin, Chiến tranh Triều Tiên, Khẩn cấp Malayan, Đối đầu Indonesia-Malaysia và Chiến tranh Việt Nam. Gần đây hơn, RAAF đã tham gia vào các hoạt động ở Hoạt động Astute|Đông Timor, Chiến tranh Iraq, Chiến tranh ở Afghanistan và Sự can thiệp do Mỹ dẫn đầu ở Iraq (2014 – nay)|can thiệp quân sự chống lại Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (ISIL). Gần đây, Không quân Úc cũng hỗ trợ khắc phục thiên tai ở các quốc gia khác trên thế giới như Động đất và sóng thần Tōhoku 2011, hay cũng như hỗ trợ Liên Hợp Quốc tại các chiến dịch Gìn giữ Hòa bình của họ ở khắp nơi trên thế giới như vận chuyển quân đội và thiết bị quân sự các nước, trong đó có Việt Nam, đến châu Phi và các vùng cần hỗ trợ khác.

RAAF có 309 máy bay, trong đó có 140 máy bay chiến đấu các loại.

Tham khảo

sửa
  1. ^ “Current aircraft”. Royal Australian Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2018.
  2. ^ “Aviation projects”. Australian Army. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2018.
  3. ^ “Australian Military Aviation and World War One”. Royal Australian Air Force. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
  4. ^ Barnes 2000, p. 3.
  5. ^ Eather 1995, p. 18.