Kinh Bắc
Năm Canh Tuất, 1490, vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ cả nước, gồm 13 (đạo) xứ thừa tuyên (sau gọi là xứ). Từ triều Tây Sơn tới đầu triều Nguyễn đổi sang gọi là trấn. Đến đây mới xuất hiện tên gọi các Xứ (Trấn).
13 Xứ (Trấn) từ Nghệ An trở ra Bắc, gồm: Xứ Nghệ An, trấn Hưng Hóa, nội trấn Thanh Hoa, đạo Thanh Bình, trấn Cao Bằng, xứ Lạng Sơn, xứ Tuyên Quang, trấn An Quảng (Yên Quảng), xứ Thái Nguyên, phủ Hoài Đức (Thăng Long).
Riêng các vùng đất quanh Thăng Long đươc gọi là Tứ trấn gồm:
- Vùng núi phía tây được gọi là trấn Sơn Tây (hay xứ Đoài).
- Vùng núi phía nam Thăng Long được gọi là trấn Sơn Nam.
- Vùng ven biển phía đông được gọi là trấn Đông Hải (hay xứ Đông).
- Vùng phía bắc Thăng Long được gọi là trấn Kinh Bắc.

Kinh Bắc (chữ Hán: 京北) là một địa danh cũ ở phía bắc Việt Nam, có trung tâm là tỉnh Bắc Ninh - Bao gồm các tỉnh thành là: Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn (Hữu Lũng); Hưng Yên (Văn Giang, Văn Lâm); Hà Nội (gồm toàn bộ khu vực phía bắc sông Hồng là: Gia Lâm, Long Biên, Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn), Thái Nguyên (Phổ Yên) và Vĩnh Phúc (Phúc Yên).
Tuy nhiên, tới thời vua Gia Long nhà Nguyễn, Kinh Bắc vẫn được gọi là xứ (xứ Kinh Bắc) thuộc Bắc thành tổng trấn[1]. Theo đó: Xứ (Trấn) Kinh Bắc xưa bao gồm 4 phủ (nay là 21 huyện), cụ thể là:
1 - Phủ Thuận An - gồm 5 huyện nằm ở phía Nam sông Đuống là: huyện Gia Lâm (từ 1954 và 1961 thuộc Hà Nội), huyện Văn Giang (từ 1947 thuộc tỉnh Hưng Yên) và các huyện Thuận Thành, Gia Bình và Lương Tài (thuộc Bắc Ninh).
Phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc được hình thành từ thời nhà Hậu Lê và Lê Trung hưng, đến năm 1831 Phủ Thuận An được đổi tên là: Phủ Thuận Thành.
2- Phủ Từ Sơn - gồm 5 huyện của Bắc Ninh: huyện Đông Ngàn (bao gồm thành phố Từ Sơn hiện nay và 1 phần thuộc nhỏ thuộc Hà Nội hiện nay), Yên Phong, Tiên Du, Quế Dương, Võ Giàng. (Năm 1962, Quế Dương và Võ Giàng được hợp nhất thành Quế Võ).
3- Phủ Bắc Hà - gồm 5 huyện: Tân Phúc (Sóc Sơn), Thiên Phúc (nay thuộc Phổ Yên (Thái Nguyên)), Kim Hoa (nay gồm Mê Linh, Đông Anh, Sóc Sơn (Hà Nội), thành phố Phúc Yên của (Vĩnh Phúc), Hiệp Hoà, Việt Yên (Bắc Giang).
4- Phủ Lạng Giang - gồm 6 huyện: Phượng Nhãn (Lạng Giang), Yên Dũng, Bảo Lộc (Lục Nam), Yên Thế, Lục Ngạn (Bắc Giang) và Hữu Lũng (Lạng Sơn).
Vì trấn lỵ của Phủ Lạng Giang là Đáp Cầu, huyện Võ Giàng (nằm ở phía bắc kinh thành), nên Kinh Bắc cũng được gọi là: trấn Bắc hay trấn Khảm.
Năm 1884, Pháp đánh thành Bắc Ninh hoàn thành gấp công cuộc thống trị và bảo hộ Việt Nam, từ đó đã có sự điều chỉnh, cụ thể:
• Năm 1895, tách phủ Lạng Giang ra lập tỉnh Bắc Giang. Riêng huyện Hữu Lũng được nhập vào tỉnh Lạng Sơn.
• Năm 1903, tách các huyện Đông Anh, Kim Anh, Đa Phúc nhập vào tỉnh Vĩnh Yên.
• Năm 1947, huyện Văn Giang của Bắc Ninh được tách sang tỉnh Hưng Yên.
• Năm 1954 và năm 1961, huyện Gia Lâm của Bắc Ninh được tách ra và sáp nhập vào Hà Nội.
Từ trước tới nay mỗi khi nói về vùng văn hoá Kinh Bắc thì cái tên "Kinh Bắc" thường được nói kèm với “Bắc Ninh”, quen gọi là: "Bắc Ninh - Kinh Bắc". Vì vậy ngày nay trên phương tiện truyền thông thường gây ra sự hiểu lầm về địa danh này mặc định chỉ riêng về “Bắc Ninh”. Trong khi vùng văn hoá Kinh Bắc xưa bao gồm 4 phủ (nay là 21 huyện) tức là gồm toàn bộ địa giới 2 tỉnh là: tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Bắc Giang và một phần của Hà Nội, Hưng Yên, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc ngày nay.
Lịch sử thay đổi địa giới và tên gọiSửa đổi
Phủ Thuận An - đã trải qua quá trình thay đổi:
- Năm 1954 và 1961: Huyện Gia Lâm, thuộc tỉnh Bắc Ninh được chuyển về TP. Hà Nội.
- Năm 2004: Quận Long Biên, được tách ra từ huyện Gia Lâm, trở thành một quận trực thuộc thành phố Hà Nội
- Huyện Siêu Loại, được đổi tên là huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh
- Huyện Văn Giang, nay là một phần huyện Văn Giang và một phần huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên.
- Huyện Văn Lâm, nay là một phần huyện Văn Lâm và một phần thị xã Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên.
- Huyện Lang Tài, nay là huyện Lương Tài tỉnh Bắc Ninh.
- Huyện Gia Định, năm 1823 đổi tên thành huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Tóm lại: Phủ Thuận An xưa, đến nay là 8 đơn vị hành chính cấp Quận, huyện, bao gồm:
- Huyện Gia Lâm và quận Long Biên: thuộc TP Hà Nội.
- Huyện Thuận Thành, huyện Gia Bình, huyện Lương Tài: thuộc tỉnh Bắc Ninh.
- Huyện Văn Lâm, Văn Giang xưa, nay là huyện Văn Lâm, huyện Văn Giang và một phần huyện Yên Mỹ, một phần thị xã Mỹ Hào: thuộc tỉnh Hưng Yên.
Phủ Bắc Hà - đã trải qua quá trình thay đổi:
- Huyện Kim Hoa, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội
- Huyện Tân Phúc, nay thuộc một phần các huyện Sóc Sơn, huyện Đông Anh, huyện Mê Linh (Hà Nội) và phần lớn thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
- Huyện Thiên Phúc, nay là Thị xã Phổ Yên
Cho tới nay, các huyện thuộc Phủ Bắc Hà đã được chuyển đổi thành 7 đơn vị hành chính cấp huyện:
• Thuộc TP Hà Nội gồm: Mê Linh, Đông Anh, Sóc Sơn.
• Thuộc tỉnh Vĩnh Phúc gồm: thành phố Phúc Yên và một phần huyện Vĩnh Tường.
• Thuộc tỉnh Thái Nguyên gồm: thị xã Phổ Yên và một phần huyện Phú Bình, thành phố Sông Công.
• Thuộc tỉnh Bắc Giang gồm: huyện Hiệp Hòa , huyện Việt Yên và một phần huyện Yên Thế.
Phủ Lạng Giang - đã trải qua quá trình thay đổi:
- Huyện Yên Dũng, nay thuộc Bắc Giang
- Huyện Lục Ngạn, nay thuộc huyện Lục Ngạn và huyện Sơn Động Bắc Giang
- Huyện Yên Thế, nay thuộc Bắc Giang
- Huyện Phượng Nhãn, này thuộc huyện Lạng Giang và huyện Tân Yên
- Huyện Hữu Lũng, nay thuộc Lạng Sơn
- Huyện Bảo Lộc, nay thuộc huyện Lục Nam và một phần huyện Yên Dũng
Phủ Lạng Giang hiện nay gồm 9 đơn vị hành chính cấp huyện thuộc Bắc Giang là Tân Yên, Yên Thế, Yên Dũng, Lục Ngạn, Lục Nam, Sơn Động, thành phố Bắc Giang, Lạng Giang và Lạng Sơn là Hữu Lũng, một phần huyện Việt Yên.
Phủ Từ Sơn - đã trải qua quá trình thay đổi:
- Huyện Quế Dương, nay thuộc huyện Quế Võ
- Huyện Võ Giàng, nay thuộc một phần huyện Quế Võ, một phần thành phố Bắc Ninh
- Huyện Tiên Du, nay thuộc Bắc Ninh
- Huyện Yên Phong, nay thuộc Bắc Ninh
- Huyện Đông Ngàn (bao gồm thành phố Từ Sơn hiện nay và một phần huyện Đông Anh)
Phủ Từ Sơn hiện tại có 5 đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Bắc Ninh là thành phố Bắc Ninh, Từ Sơn, huyện Yên Phong, Tiên Du, Quế Võ. TP Hà Nội là một phần huyện Đông Anh và Gia Lâm.
Các huyện ngày naySửa đổi
Các phủ, huyện của Kinh Bắc ngày nay tương đương với các đơn vị hành chính sau.
- Bắc Ninh: Toàn bộ 8/8 huyện, thành phố. Bắc Ninh, Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ, Thuận Thành, Tiên Du, Từ Sơn, Yên Phong.
- Bắc Giang: Toàn bộ 10/10 huyện, thành phố. Bắc Giang, Lạng Giang, Yên Dũng, Yên Thế, Việt Yên, Tân Yên, Lục Nam, Lục Ngạn, Hiệp Hòa, Sơn Động.
- Hà Nội: Các quận, huyện phía đông và phía bắc sông Hồng (5 quận, huyện). Long Biên, Gia Lâm, Mê Linh, Đông Anh, Sóc Sơn.
- Hưng Yên: Các huyện Văn Lâm, Văn Giang, một phần thị xã Mỹ Hào và huyện Yên Mỹ
- Lạng Sơn: Huyện Hữu Lũng
- Thái Nguyên: Thị xã Phổ Yên
- Vĩnh Phúc: Thành phố Phúc Yên (phần lớn)
Tổng số có 30 đơn vị cấp huyện.
Thành ngữ, thơ caSửa đổi
Ca ngợi khí phách anh hùng và vẻ đẹp của trai gái Kinh Bắc:
- "Trai Cầu Vồng Yên Thế - gái Nội Duệ, Cầu Lim"
Ca ngợi 3 làng cổ nhất ở Kinh Bắc:
Xứ Kinh Bắc xưa nổi tiếng với những ngôi chùa cổ. Dân gian miền Bắc có câu: "Cầu Nam - chùa Bắc - đình Đoài" có ý nghĩa ca ngợi xứ Sơn Nam nổi tiếng với những cầu cổ có giá trị như: cầu Đông, cầu Dền ở cố đô Hoa Lư, cầu ngói Phát Diệm (Ninh Bình), cầu ngói chợ Lương (Nam Định); xứ Kinh Bắc nổi tiếng với những ngôi chùa như: chùa Dâu, Chùa Cổ Lũng (Tiên Du), chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), chùa Phật Tích (Tiên Du); xứ Đoài nổi tiếng với những ngôi đình đẹp như: Đình So, đình Mông Phụ, đình Tây Đằng, đình Chu Quyến (Hà Tây cũ), đình Thổ Tang (Vĩnh Phúc).
Di tích lịch sử, Danh nhân nổi tiếngSửa đổi
Kinh Bắc là nơi có 3 kinh đô cổ của Việt Nam gồm: Cổ Loa, Mê Linh và Long Biên. 3 kinh đô cổ này đều ở phía bắc sông Hồng so với trung tâm Hà Nội ngày nay.
Kinh Bắc cùng với xứ Đoài là hai vùng văn hóa cổ nhất so với xứ Sơn Nam và xứ Đông, những vùng văn hóa lâu đời tại Việt Nam. Tại đây có nhiều di tích có giá trị lịch sử - văn hóa như: Cổ Loa, đền Sóc, chùa Phật Tích, chùa Dâu, Tây Yên Tử, đền thờ Hai Bà Trưng, di tích khởi nghĩa Yên Thế, làng Xuân Lan-trong lịch sử được biết đến là Thuận An thắng địa-Kinh Bắc danh hương (và ông Thủ khoa hiện đại Vũ Tú gọi đó là "làng Khôi nguyên xứ Bắc") với những người ưu tú hàng đầu (Vũ Miên, Vũ Trinh, Vũ Tú...) làm rạng danh quê hương đất nước.
Quê hương Kinh Bắc có dân ca quan họ và lễ hội Gióng được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) là di sản tư liệu thế giới.
Xứ Kinh Bắc là mảnh đất địa linh nhân kiệt, có những danh nhân tiêu biểu: Lý Công Uẩn, Thủy Tổ Việt Nam Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Phù Đổng Thiên Vương, Ỷ Lan, Lê Văn Thịnh, lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo, Danh sĩ-nhà soạn Chèo Vũ Trinh...
Nghệ thuật chèo xứ BắcSửa đổi
Chèo là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở phía bắc Việt Nam với trọng tâm là vùng đồng bằng sông Hồng cùng hai khu vực lan tỏa là trung du miền núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Chèo được hình thành từ thế kỷ 10, tại Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình), tồn tại trong cung đình đến thế kỷ 15 thì được trả hoàn toàn về với người dân. Chèo do các Nho sĩ soạn, chẳng hạn Lưu Bình-Dương Lễ do danh sĩ Vũ Trinh, thời cuối Lê- đầu Nguyễn soạn.
Không gian nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng chia ra làm 4 chiếng chèo Đông - Đoài - Nam - Bắc. Chiếng Chèo là những phường Chèo hoạt động trong một vùng văn hóa, địa lý nhất định. Mỗi chiếng có những "ngón nghề" riêng, kỹ thuật riêng, khó lưu truyền và phát triển ra đến bên ngoài do sự khác nhau trong phong cách nghệ thuật dựa trên cơ sở dân ca, dân vũ và văn hóa địa phương, chỉ người trong chiếng mới diễn được với nhau.
Chiếng chèo Bắc gồm khu vực bắc Hà Nội và các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên. Vùng này xưa là trấn Kinh Bắc. Chèo xứ Bắc mang âm hưởng của dân ca quan họ, phát triển mạnh ở các huyện Yên Dũng, Quế Võ, Gia Lương. Các làn điệu chèo đặc trưng của chiếng chèo Bắc như: Con nhện giăng mùng, Đường trường vị thủy, Rủ nhau lên núi Thiên Thai, Sắp sông dâu,... Ngày nay chiếng chèo Bắc có các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp như: nhà hát Chèo Bắc Giang, Đoàn Chèo Thái Nguyên.
Hình ảnhSửa đổi
Xem thêmSửa đổi
Tham khảoSửa đổi
- ^ Theo cuốn Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19, các trang 21,67.