Lê Ngọc Hiền
Lê Ngọc Hiền (1928-2006) là một tướng lĩnh cấp cao Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Thượng tướng[1], Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông được xem là người chủ trì việc xây dựng kế hoạch tác chiến cuối năm 1974, xác định mục tiêu chiến lược ở Tây Nguyên, dẫn đến cho chiến dịch mùa xuân 1975. Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Quá trình công tác Sửa đổi
Ông tên thật là Nguyễn Ngọc Thiện, quê ở xã Đức Thượng, thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội).
- Bắt đầu tham gia cách mạng từ năm 1944 với nhiệm vụ in và phát hành báo Độc Lập tại quê nhà, năm 1945, ông trở thành Bí thư Thanh niên Cứu quốc thị xã Sơn Tây rồi tham gia bộ đội địa phương hoạt động ở các tỉnh Sơn Tây, Ninh Bình và Nam Định.
- Từ tháng 5 năm 1947 đến tháng 2 năm 1955, ông lần lượt giữ các cương vị Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn phó, Trung đoàn trưởng rồi Tham mưu trưởng Đại đoàn 320 (sau là Sư đoàn 320).
- Từ tháng 3 năm 1955 đến tháng 7 năm 1960, ông công tác tại Bộ Tổng Tham mưu và giữ chức Cục phó rồi Cục trưởng các Cục Quân huấn và Cục Tác chiến. Năm 1962, sang Liên Xô học.
- 1967, vào miền Nam trực tiếp chiến đấu và là Phó Tư lệnh Mặt trận B5 (chiến trường Trị Thiên).
- 8/1970-1973, là phái viên của Bộ Quốc phòng tại Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam và là Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Miền (B2).
- 1974, là Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam với quân hàm Thiếu tướng.
- 1975, là quyền Tham mưu trưởng Chiến dịch Hồ Chí Minh.
- Phó Tổng Tham mưu trưởng, Uỷ viên Hội đồng Quân sự Bộ Quốc phòng [2].
- 1987, Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.
- Lần lượt được phong hàm: Thượng tá 1958, Đại tá 1965, Thiếu tướng 1974, Trung tướng1980 và Thượng tướng1986.
- 1981, được bầu làm Đại biểu Quốc hội khoá VII.
- 1976, là Uỷ viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IV.
- 1982, là Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá V.
- 1995, nghỉ hưu.
- Ngày 18 tháng 4 năm 2006, Thượng tướng Lê Ngọc Hiền mất tại Hà Nội, thọ 78 tuổi. Ông được an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
Lịch sử thụ phong quân hàm Sửa đổi
Năm thụ phong | 1974 | 1980 | 1986 | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Quân hàm | Tập tin:Vietnam People's Army Major General.jpg | Tập tin:Vietnam People's Army Lieutenant General.jpg | Tập tin:Vietnam People's Army Colonel General.jpg | |||||||
Cấp bậc | Thiếu tướng | Trung tướng | Thượng tướng | |||||||
Đời tư Sửa đổi
Ông nổi danh vì có thời gian dài hơn 20 năm làm công tác tác chiến, do đó bạn bè vẫn thường gọi ông với biệt danh là Hiền "tác chiến".
Ông là em ruột của bà Nguyễn Thị Mùi (tức Nguyễn Thị Minh Sơn), vợ của Đại tướng Lê Trọng Tấn.
Ông lập gia đình với bà Lương Ngọc Thư vào năm 1954. Ông bà có với nhau 3 người con (một gái, hai trai).
Tham khảo Sửa đổi
- ^ Nghị quyết số 704 NQ/HĐNN7, ngày 30-01-1986 của Hội đồng Nhà nước về việc thăng quân hàm từ cấp Trung tướng lên cấp Thượng tướng cho 10 quân nhân (do Chủ tịch Trường Chinh Ký)
- ^ Quyết định số: 8/07/NQNS-TW, ngày 18-5-1984 của Bộ Chính trị, Về việc chỉ định hội đồng Quân sự Bộ Quốc phòng (gồm các đ/c: Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Bùi Phùng, Lê Ngọc Hiền, Đặng Vũ Hiệp)