Mahmud II
Sultan Mahmud II Adli (1785 – 1839) là vị sultan thứ 30 của Đế quốc Ottoman, trị vì từ năm 1808 đến khi qua đời. Ông được mệnh danh là "Pyotr Đại đế của Thổ Nhĩ Kỳ".[1]
Mahmud II | |
---|---|
Sultan Thổ Nhĩ Kỳ | |
Sultan Đế quốc Ottoman | |
Trị vì | 1808 - 1839 |
Tiền nhiệm | Mustafa IV |
Kế nhiệm | Abdül Mecid I |
Thông tin chung | |
Sinh | 20 tháng 7 năm 1785 |
Mất | Tháng 7, 1839 Thổ Nhĩ Kỳ |
Triều đại | Nhà Ottoman |
Thân phụ | Abdul Hamid I |
Thân mẫu | Naksidil Sultana |
Tiểu sử
sửaBan đầu
sửaMahmud II là con trai của Sultan Abdul Hamid I và bà Naksidil Sultana. Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm 1785 tại Cung điện Topkapi, Constantinople.[2]
Cải cách
sửaMahmud lên kế vị năm 1808, khi đã 24 tuổi. Khi làm thái tử, ông học hỏi các cải cách của sultan Selim III để cứu vãn đế quốc đang suy vong trầm trọng. Mahmud cai trị với tư cách là một hoàng đế năng nổ khác thường. Là một con người thông minh và có nhận thức ông, làm theo các cải cách ở phương Tây. Ông cải tổ cách lại hệ thống pháp luật. Ông được xem là người đã hiện đại hóa Đế quốc Ottoman.
Mahmud không phải là quốc vương đầu tiên của đế quốc đã cố gắng đại tu đế chế. Tuy nhiên, ông là người đầu tiên làm như vậy thành công. Ý nghĩa tốt, nhưng cuối cùng vượt quá tham vọng Selim III đã bị hạ bệ và ám sát phần lớn do cố gắng cải cách quá nhanh và không thể xoa dịu những chỉ trích về quá trình này. Jannisaries đã nổi dậy và đá ông ta khỏi ngai vàng vào năm 1808. Mustafa IV, người đã theo Selim, chỉ nắm quyền lực trong một năm vào năm 1808. Trong thời gian này, Mustafa có rất ít không gian để chứng minh rằng ông ta là người cải cách hay bảo thủ. quyền lực của ông ta bị kiềm chế bởi tình trạng vô chính phủ và nổi dậy càn quét đế chế.[3]
Mahmud II thay thế Mustafa và quản lý để cung cấp sự lãnh đạo mạnh mẽ cần thiết để đưa đế chế trở lại từ bờ vực hỗn loạn, đồng thời xoa dịu những chỉ trích cải cách. Thành tựu lớn nhất của Mahmud II, theo lời của Malcom Yapp, là để thiết lập sự tôn trọng của sự thay đổi. Ông đã chứng minh, nơi mà những người Sultan trước đây như Selim đã cố gắng và thất bại, sự thay đổi đó là cả một lực lượng tích cực và cần thiết và đế chế đang cần cải cách. Những năm cuối cùng của sự cai trị của Mahmud đã chứng kiến sự khởi đầu của những gì các nhà sử học gọi là 'Tanzaniaimat', nghĩa là sự thống trị của đế chế Ottoman. Đó là do những nỗ lực của Mahmud, để chứng minh sự cần thiết của sự thay đổi, mà sau đó, người Sultan đã có thể tiếp tục Tanzaniaimat. Mặc dù sắp xếp lại đế chế, cuối cùng không thể cứu nó khỏi sự sụp đổ vào năm 20 Những năm cuối cùng của sự cai trị của Mahmud đã chứng kiến sự khởi đầu của những gì các nhà sử học gọi là 'Tanzaniaimat', nghĩa là sự thống trị của đế chế Ottoman. Đó là do những nỗ lực của Mahmud, để chứng minh sự cần thiết của sự thay đổi, mà sau đó, người Sultan đã có thể tiếp tục Tanzaniaimat. Mặc dù sắp xếp lại đế chế, cuối cùng không thể cứu nó khỏi sự sụp đổ vào thế kỷ 20.[3]
Từ năm 1821-1829, lãnh thổ của Ottoman ở Hy Lạp nổi dậy. Với sự giúp đỡ của Nga, Anh và Pháp, họ đã bại quân Ottoman và giành được độc lập - thành lập Vương quốc Hy Lạp.
Kiến trúc
sửaSultan Mahmud II đặc biệt quan tâm đến kiến trúc. Ông cho xây dựng nhiều doanh trại và kho thuốc súng ở trong và ngoài thủ đô, nhiều thánh đường Hồi giáo và nhiều dinh của chính hoàng đế ở bờ biển Bosphorus. Một vài trong số những công trình đó là:Thánh đường Suleymaniye ở Rhodes, Thánh đường Biyikoglu Mahmud ở Izmir, trường Cevi Kalfa, thánh đường Nusretiye, Thánh đường Istanbul Koca Mustafa Pasha, các doan trại Stone.
Sultan Mahmud đồng thời cũng tu bổ cho tất cả các thánh đường Hồi giáo lớn. Ông là một thi sĩ và nhạc sĩ, và viết chữ rất đẹp.
Qua đời
sửaTháng 7 năm 1839 ông bị bệnh lao va qua đời, hưởng dương 54 tuổi. Ông hài ông được đem về chốn cất ở Divan Yolu.
Gia quyến
sửa- Cha: Abdul Hamid I
- Mẹ: Naksidil Sultana
- Vợ:
- Valide Sultan Bezm-i Alem – Thái hậu thời Abdul Mejid I
- Valide Sultan Pertevniyal – Thái hậu thời Abdul Aziz
- Haciye Pertev-Piyale Nev-fidan
- Ali-cenab
- Fatma
- Asub-i Can
- Haciye Host-yar
- Nurtab
- Misl-i Na-yab
- Perviz-felek Vuslat
- Zer-niga
- Ebr-i Reftar
- Con:
- Bao gồm 14 người con trai và 12 người con gái.
Xem thêm
sửaTham khảo
sửa- ^ Eugene Rogan (ngày 4 tháng 10 năm 2002). Outside In: Marginality in the Modern Middle East. I.B.Tauris. tr. 15. ISBN 978-1-86064-698-0.
- ^ Finkel, Caroline, Osman's Dream, (Basic Books, 2005), 57; "Istanbul was only adopted as the city's official name in 1930.".
- ^ a b “Sultan Mahmud II”. Age of Revoulution (1775 - 1848).
|url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)
Liên kết ngoài
sửaWikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Mahmud II. |