Manuel Luis Quezon y Molina (ngày 19 tháng 8 năm 1878 - ngày 01 tháng 8 năm 1944) là Chủ tịch của Khối thịnh vượng chung Philippines từ năm 1935 đến năm 1944. Ông là người Philippines đầu tiên đứng đầu một chính phủ Philippines, và được cho là tổng thống thứ hai của Philippines, sau Emilio Aguinaldo (1898–1901).
Manuel L. Quezon |
---|
|
|
Tổng thống thứ hai của Philippines |
---|
Nhiệm kỳ 15 tháng 11 năm 1935 – 1 tháng 8 năm 1944 |
Phó Tổng thống | Sergio Osmeña, Sr. |
---|
Tiền nhiệm | Chức vụ tái lập Emilio Aguinaldo (Tổng thống Philippines) Frank Murphy (Toàn quyền Philippines) |
---|
Kế nhiệm | José P. Laurel, Sr.(de facto) |
---|
Chủ tịch Thượng viện Philippines |
---|
Nhiệm kỳ 29 tháng 8 năm 1916 – 15 tháng 11 năm 1935 |
Tiền nhiệm | Chức vụ thành lập |
---|
Kế nhiệm | Manuel Roxas |
---|
Thượng Nghị sĩ Philippines |
---|
Nhiệm kỳ 16 tháng 10 năm 1916 – 15 tháng 11 năm 1935 Cùng với: Vicente Ilustre (1916–1919) Antero Soriano (1919–1925) José P. Laurel (1925–1931) Claro M. Recto (1931–1935) |
Tiền nhiệm | Chức vụ thành lập |
---|
Kế nhiệm | Chức vụ bãi bỏ |
---|
Bộ trưởng Quốc phòng |
---|
Nhiệm kỳ 16 tháng 7 năm 1941 – 10 tháng 12 năm 1941 |
Tổng thống | Bản thân |
---|
Tiền nhiệm | Teofilo Sison |
---|
Kế nhiệm | Jorge B. Vargas |
---|
Uỷ viên Thường trực Philippines |
---|
Nhiệm kỳ 23 tháng 11 năm 1909 – 15 tháng 10 năm 1916 Cùng với: Benito Legarda (1909–1913) và Manuel Earnshaw (1913–1916) |
Tiền nhiệm | Pablo Ocampo |
---|
Kế nhiệm | Teodoro R. Yangco |
---|
Lãnh tụ Đa số Hạ viện Philippines |
---|
Nhiệm kỳ 16 tháng 10 năm 1907 – 23 tháng 11 năm 1909 |
Tiền nhiệm | Chức vụ thành lập |
---|
Kế nhiệm | Alberto Barreto |
---|
Hạ nghị sĩ từ Tayabas |
---|
Nhiệm kỳ 16 tháng 10 năm 1907 – 16 tháng 10 năm 1916 |
Tiền nhiệm | Chức vụ thành lập |
---|
Kế nhiệm | Filemon Perez |
---|
Thống đốc Tayabas |
---|
Nhiệm kỳ 1906 – 1907 |
|
Thông tin cá nhân |
---|
Sinh | Manuel Luis Molina Quezon Sr. 19 tháng 8 năm 1878 Baler, El Principe, Tổng uý Philippines (nay là Baler, Aurora, Philippines) |
---|
Mất | 1 tháng 8 năm 1944 (65 tuổi) Saranac Lake, New York, Hoa Kỳ |
---|
Nơi an nghỉ | Quezon Memorial Circle, Thành phố Quezon, Philippines |
---|
Đảng chính trị | Đảng Dân tộc |
---|
Đảng khác | Đảng Dân chủ |
---|
Phối ngẫu | Aurora Aragón |
---|
Quan hệ | Manuel L. Quezon III (grandson) |
---|
Con cái | Ma. Aurora Quezon Maria Zeneida Quezon-Avanceña Manuel L. Quezon, Jr. Luisa Corazon Paz Quezon |
---|
Alma mater | Đại học San Juan de Letran Đại học Santo Tomas |
---|
Chuyên nghiệp | Luật sư, Binh sĩ, Chính trị gia |
---|
Chữ ký | |
---|
Phục vụ trong quân đội |
---|
Thuộc | Philippines |
---|
Phục vụ | Quân đội Cách mạng Philippines Quân đội Thịnh vượng chung Philippines |
---|
Năm tại ngũ | 1899–1900 1941–1944 |
---|
Cấp bậc | Thiếu tá (1899–1900) |
---|
Tham chiến | Chiến tranh Philippines-Mỹ Chiến tranh thế giới thứ hai * Chiến dịch Philippines (1941–1942) |
---|
Quezon là chủ tịch Thượng viện đầu tiên được bầu vào chức tổng thống, tổng thống đầu tiên được bầu thông qua một cuộc bầu cử quốc gia và tổng thống đương nhiệm được tái đắc cử (một phần nhiệm kỳ thứ hai, sau đó mở rộng, nhờ Hiến pháp sửa đổi năm 1935). Ông được biết đến như là "cha đẻ của ngôn ngữ quốc gia".
Trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của mình, Quezon đã giải quyết vấn đề nông dân không có ruộng ở vùng nông thôn. Quyết định quan trọng khác của ông bao gồm tổ chức lại phòng thủ quân sự trên các đảo, phê chuẩn đề nghị tổ chức lại chính phủ, thúc đẩy định cư và phát triển ở Mindanao, đối phó với ràng buộc của nước ngoài đối với thương mại và mậu dịch Philippines, đề xuất cải cách đất đai, và chống hối lộ và tham nhũng trong phạm vi chính phủ. Ông thành lập một chính phủ lưu vong ở Mỹ khi chiến tranh bùng nổ và Philippin đối diện với cuộc chiến xâm lược của Nhật Bản.
Trong thời gian sống lưu vong ở Hoa Kỳ ông đã chết vì bệnh lao ở Saranac Lake, New York. Ông được chôn cất tại nghĩa trang quốc gia Arlington cho đến khi kết thúc thế chiến II, sau cuộc chiến hài cốt của ông đã được chuyển đến Manila. Nơi an nghỉ cuối cùng của ông là Quezon City Memorial Circle.
Trong năm 2015, Hội đồng quản trị của The International Raoul Wallenberg Foundation phê duyệt truy tặng Huân chương Wallenberg cho Tổng thống Quezon và nhân dân của Philippines vì đã hỗ trợ cho các nạn nhân của Holocaust giữa năm 1937 và 1941. Tổng thống Benigno Aquino III, và María Zeneida Quezon Avanceña, lúc đó 94 tuổi và con gái của cựu Tổng thống, được thông báo về việc vinh danh này.