Miễn dịch học

phân ngành của sinh học và y học chuyên nghiên cứu về hệ miễn dịch

Miễn dịch học là một phân ngành của sinh họcy học[1] chuyên nghiên cứu về hệ miễn dịch[2] ở mọi sinh vật.

Miễn dịch học
Hệ cơ quanHệ miễn dịch
Chuyên môn/chuyên ngành con Lâm sàng
Bệnh lý quan trọng
Xét nghiệm quan trọng
Nhà chuyên mônNhà miễn dịch học

Miễn dịch học lập biểu đồ, đánh giá và chuyên môn hóa chức năng sinh lý của hệ miễn dịch ở cả trạng thái sức khỏe và có bệnh; những trục trặc của hệ miễn dịch ở các bệnh rối loạn miễn dịch (chẳng hạn như bệnh tự miễn, quá mẫn,[3] suy giảm miễn dịch[4]thải ghép)[5]; và những đặc tính vật lý, hóa học và sinh lý học của các thành phần thuộc hệ miễn dịch gồm in vitro,[6] in situin vivo.[7] Miễn dịch học được ứng dụng ở nhiều phân ngành y học, cụ thể là các khoa ghép tạng, ung thư học, thấp khớp học, virus học, vi khuẩn học, ký sinh học, tâm thần học và da liễu.

Thuật ngữ "Immunology" (tiếng Anh của miễn dịch học) do nhà sinh học người Nga Ilya Ilyich Mechnikov đặt ra.[8] Ông là người nâng tầm nghiên cứu về miễn dịch học và giành giải Nobel Prize nhờ "công trình hợp tác với Paul Ehrlich về miễn dịch học" vào năm 1908. Ông cài những chiếc gai nhỏ vào ấu trùng sao biển và nhận thấy các tế bào khác thường bao quanh những chiếc gai. Đây là phản ứng chủ động của cơ thể nhằm duy trì tính toàn vẹn của nó. Chính Mechnikov là người lần đầu quan sát hiện tượng thực bào[9] - đó là khi cơ thể tự phòng vệ chống vật thể lạ. Ehrlich nuôi và cho chuột ăn các chất độc ricin và abrin. Sau khi cho chúng ăn hàm lượng ricin nhỏ song tăng dần, chúng đã sở hữu tính "kháng ricin". Ehrlich giải thích đây là quá trình tạo miễn dịch và quan sát thấy nó đột ngột khởi phát sau ít ngày và vẫn tồn tại trong nhiều tháng.

Trước khi thống nhất từ miễn dịch,[10] từ gốc thuật ngữ immunis (mà tiếng Latinh là 'miễn trừ'), các bác sĩ thời sơ khai đã mô tả những cơ quan - mà về sau chúng được chứng minh là thành phần thiết yếu của hệ miễn dịch. Những cơ quan lympho quan trọng của hệ miễn dịch là tuyến ức,[11] tủy xương và các mô lympho chính như lách, amidan, mạch bạch huyết, hạch bạch huyết, hạchgan. Tuy nhiên, nhiều thành phần của hệ miễn dịch có bản chất tế bào và không liên kết với các cơ quan cụ thể, song được gắn hoặc lưu thông ở nhiều nằm rải rác khắp cơ thể.

Miễn dịch học cổ điển sửa

Miễn dịch học cổ điển gắn liền với các ngành dịch tễy học. Bộ môn nghiên cứu mối quan hệ giữa các hệ cơ thể, mầm bệnh và miễn dịch. Công trình viết tay đầu tiên về miễn dịch có thể xuất phát từ bệnh dịch thành Athens vào năm 430 TCN. Thucydides ghi nhận rằng những người đã khỏi bệnh sau đợt dịch ấy có thể chăm sóc người bệnh khác mà không sợ tái phát lần hai.[12] Nhiều xã hội cổ đại có nhắc đến hiện tượng này, song phải đến thế kỷ 19 và 20 thì khái niệm ấy mới được phát triển thành lý thuyết khoa học.

Việc nghiên cứu các thành phần tế bào và phân tử tạo nên hệ miễn dịch (tức cả chức năng và tương tác của chúng) là trọng tâm khoa học của miễn dịch. Hệ miễn dịch được chia làm hệ miễn dịch tự nhiên nguyên thủy hơn và ở động vật có xươnghệ miễn dịch thu được. Hệ miễn dịch thu được tiếp tục được chia làm các thành phần dịch thể (hay kháng thể) và tế bào.

Hệ miễn dịch có khả năng tự và không tự nhận biết.[13] Kháng nguyên là chất kích thích phản ứng miễn dịch. Những tế bào tham gia nhận diện kháng nguyên là Lympho bào. Khi nhận diện được, chúng tiết ra kháng thể. Kháng thể là những protein làm vô hiệu các vi sinh vật gây bệnh. Kháng thể không trực tiếp tiêu diệt mầm bệnh mà chỉ định kháng nguyên là mục tiêu để cho các tế bào miễn dịch khác tiêu diệt như thực bào hoặc tế bào NK.

Phản ứng (của kháng thể) được định nghĩa là tương tác giữa kháng thể và kháng nguyên.[14] Kháng thể là những protein chuyên biệt được giải phóng từ một lớp tế bào miễn dịch nhất định (được gọi là lympho bào B), còn kháng nguyên được định nghĩa là bất kì chất nào kích thích tạo ra kháng thể (chất sinh kháng thể). Miễn dịch học dựa trên kiến thức về đặc tính của hai thực thể sinh học này và phản ứng tế bào của chúng.

Giờ đây, giới khoa học ngày càng nắm rõ rằng phản ứng miễn dịch góp phần vào phát triển nhiều chứng rối loạn phổ biến mà không được xem dưới lăng kính miễn dịch học truyền thống,[15] kể cả các bệnh chuyển hóa, tim mạch, ung thư và thoái hóa thần kinh như bệnh Alzheimer. Bên cạnh đó, còn có những tác động trực tiếp vào hệ miễn dịch ở những bệnh truyền nhiễm (lao, sốt rét, viêm gan, viêm phổi, kiết lỵ và nhiễm giun sán). Do đó, nghiên cứu trong ngành miễn dịch học là ưu tiên hàng đầu đối với tiến bộ trong các ngành y học hiện đại, nghiên cứu y sinh và công nghệ sinh học.

Miễn dịch học chẩn đoán sửa

Tính đặc hiệu của liên kết giữa kháng thể và kháng nguyên đã trở thành công cụ tuyệt vời để phát hiện các chất bằng một loạt kỹ thuật chẩn đoán. Kháng thể đặc hiệu với kháng nguyên mong muốn có thể kết hợp với dán nhãn đồng vị hoặc dán nhãn huỳnh quang, hoặc bằng enzym tạo màu để nhận diện nó. Tuy nhiên, sự tương đồng giữa một vài kháng nguyên có thể dẫn tới dương tính giả và các lỗi khác trong những bài xét nghiệm như vậy do kháng thể phản ứng chéo với kháng nguyên chưa thực sự ăn khớp.[16]

Miễn dịch học lâm sàng sửa

Miễn dịch học lâm sàng là phân ngành nghiên cứu các bệnh do rối loạn ở hệ miễn dịch gây ra (sự thoái hóa, hoạt động bất thường và sự phát triển ác tính của các thành phần tế bào trong hệ). Ngành cũng liên quan tới các bệnh ở những hệ khác, khi mà phản ứng miễn dịch đóng vai trò nhất định trong các đặc tính lâm sàng và bệnh lý học.

Những bệnh do rối loạn ở hệ miễn dịch gây ra chia làm hai loại lớn:

Những rối loạn khác ở hệ miễn dịch gồm nhiều chứng quá mẫn (ví dụ như ở hen phế quản và các dị ứng khác) phản ứng không hợp với các hợp chất vô hại khác.

Căn bệnh nổi tiếng nhất tác động đến chính hệ miễn dịch là AIDS - một bệnh suy giảm miễn dịch đặc trưng bởi sự ức chế CD4+ Tế bào T ("hỗ trợ"), tế bào tuađại thực bào do virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV).

Các nhà miễn dịch học lâm sàng còn nghiên cứu cách để ngăn hệ miễn dịch hủy hoại dị ghép (thải ghép).[17]

Miễn dịch học và dị ứng thường là chuyên ngành của nội khoa hoặc nhi khoa. Những nghiên cứu sinh của miễn dịch học lâm sàng thường được tiếp xúc với nhiều khía cạnh khác nhau của chuyên ngành và chữa trị các tình trạng dị ứng, suy giảm miễn dịch nguyên thủy, tự miễn dịch và tự viêm hệ thống. Là một phần trong chương trình đào tạo, các nghiên cứu sinh có thể làm việc luân phiên thêm ở các khoa thấp khớp, khoa hô hấp, khoa tai mũi họng, khoa da liễu và phòng thí nghiệm miễn dịch.[18]

Miễn dịch học lý thuyết sửa

Miễn dịch học mang nặng tính thực nghiệm hàng ngày song còn có tính lý thuyết xuyên suốt. Nhiều học thuyết đã được đưa ra ở miễn dịch học từ cuối thế kỷ 19 cho tới ngày nay. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 chứng kiến cuộc chiến giữa thuyết miễn dịch "tế bào" và "dịch thể". Theo thuyết miễn dịch tế bào (mà đại diện cụ thể là Elie Metchnikoff), thì tế bào – hay chính xác hơn là thực bào – chịu trách nhiệm cho phản ứng miễn dịch. Ngược lại, thuyết miễn dịch dịch thể (của Robert Koch[19]Emil von Behring,[20] cùng một số nhà khoa học khác) cho rằng tác nhân miễn dịch hoạt động là các thành phần (phân tử) hòa tan có ở dịch thể, thay vì tế bào của sinh vật.[21][22][23]

Ở giữa thập niên 1950, nhờ cảm hứng từ đề xuất của Niels Jerne, Macfarlane Burnet[24] đã xây dựng thuyết chọn lọc dòng (CST) của miễn dịch.[25] Trên cơ sở của CST, Burnet phát triển một học thuyết về cách mà phản ứng miễn dịch được kích hoạt theo dấu hiệu riêng/không riêng: các thành phần "riêng" (thành phần của cơ thể) không kích hoạt phản ứng miễn dịch tiêu diệt, còn thực thể "không riêng" (ví dụ như mầm bệnh, dị ghép) kích hoạt phản ứng miễn dịch tiêu diệt.[26] Về sau học thuyết được điều chỉnh để phản ánh những khám phá mới liên quan đến tương hợp mô hoặc kích hoạt "hai tín hiệu" phức tạp của tế bào T.[27] Thuyết riêng/không riêng của miễn dịch và từ vựng riêng/không riêng đã bị phê phán,[28][29][30] song vẫn giàu sức ảnh hưởng.[31][32]

Gần đây hơn, một số khung lý thuyết đã được đề xuất trong giới miễn dịch học, kể cả góc nhìn "tự sinh" (autopoietic),[33] góc nhìn "miễn dịch nhận thức" (cognitive immune),[34] "mô hình nguy hiểm" (danger model)[29] và thuyết "gián đoạn".[35][36] Mô hình nguy hiểm (do Polly Matzinger và các đồng nghiệp đề xuất) cực kỳ giàu ảnh hưởng, dấy lên nhiều bình luận và tranh luận.[37][38][39][40]

Miễn dịch học phát triển sửa

Khả năng phản ứng của cơ thể với kháng nguyên phụ thuộc tuổi tác của người, loại kháng nguyên, yếu tố sinh đẻ và khu vực mà kháng nguyên hiện diện.[41] Trẻ sơ sinh được cho là ở trạng thái suy giảm miễn dịch sinh lý, vì cả phản ứng miễn dịch tự nhiên lẫn thu được của chúng đều cực kỳ bị ức chế. Một khi chào đời, hệ miễn dịch của trẻ phản ứng tốt với kháng nguyên protein, song lại không phản ứng tốt với glycoproteinpolysaccharide. Thực tế, nhiều bệnh viêm nhiễm ở trẻ sơ sinh là do các sinh vật có tính độc thấp như tụ cầu khuẩnPseudomonas gây nên.[42] Ở trẻ sơ sinh, hoạt độ opsonin và khả năng kích hoạt bổ thể rất hạn chế. Ví dụ, mức độ trung bình của C3 ở trẻ sơ sinh vào khoảng 65% so với mức độ ở người lớn. Hoạt độ thực bào cũng bị suy giảm đáng kể ở trẻ sơ sinh. Đây là do hoạt độ opsonin thấp, cũng như tiết chế tăng cường điều chỉnh (upregulation) của thụ thể integrinselectin, làm hạn chế khả năng bạch cầu hạt trung tính tương tác với phân tử liên kếttế bào nội mô. Bạch cầu đơn nhân thì chậm và sản xuất ATP bị tụt giảm, cũng làm hạn chế hoạt độ thực bào của trẻ sơ sinh. Mặc dù, số lượng tổng lympho bào tăng đáng kể hơn ở người trưởng thành, song miễn dịch tế bào và dịch thể lại bị thoái hóa. Tế bào trình diện kháng nguyên ở trẻ sơ sinh có thể kích hoạt tế bào T bị tụt giảm. Đồng thời, tế bào T của trẻ sơ sinh tăng sinh kém và tạo ra hàm lượng rất nhỏ cytokine như IL-2, IL-4, IL-5, IL-12 và IFN-g, làm hạn chế khả năng chúng kích hoạt phản ứng dịch thể cũng như hoạt độ thực bào của đại thực bào. Tế bào B phát triển sớm trong giai đoạn thai kỳ song chưa hoàn toàn hoạt động.[43]

 
Hình vẽ bạch cầu đơn nhân

Yếu tố sinh đẻ đóng một vai trò trong phản ứng miễn dịch của cơ thể. Khi chào đời, đa phần globulin miễn dịch là IgG sinh đẻ. Những kháng thể này được vận chuyển từ nhau thai sang bào thai nhờ sử dụng FcRn (thụ thể Fc sơ sinh).[44] Vì IgM, IgD, IgE và IgA không qua nhau thai, nên chúng gần như không thể nhìn thấy ở trẻ sơ sinh. Một vài IgA do sữa mẹ cung cấp. Những kháng thể thu được thụ động này có thể bảo vệ trẻ sơ sinh tới mười tám tháng, song phản ứng của chúng thường ngắn hạn và có ái lực thấp.[43] Những kháng thể này có thể tạo ra phản ứng tiêu cực. Nếu trẻ tiếp xúc với kháng thể của một kháng nguyên cụ thể trước khi tiếp xúc với chính kháng nguyên ấy thì đứa trẻ sẽ sinh ra phản ứng yếu ớt. Kháng thể sinh đẻ thu được thụ động có thể làm ức chế phản ứng của kháng thể với miễn dịch chủ động. Tương tự, phản ứng của tế bào T với tiêm chủng ở trẻ nhỏ khác với người lớn, và những vắc-xin gây phản ứng Th1 ở người thì không dễ tạo ra những phản ứng tương tự ở trẻ sơ sinh.[43] Từ sáu đến chín tháng tuổi, hệ miễn dịch của trẻ bắt đầu phản ứng mạnh hơn với glycoprotein, song thường không cải thiện rõ rệt ở phản ứng với polysaccharide cho đến khi chúng ít nhất được một tuổi. Đây có thể là nguyên do cho các khung thời gian riêng biệt trong lịch tiêm chủng.[45][46]

Ở thời niên thiếu, cơ thể người trải qua nhiều thay đổi về mặt hình thể, sinh lý và miễn dịch do các hormone kích hoạt và làm trung gian; loại hormone nổi bật nhất ở nữ là 17-β-estradiol (một estrogen) và ở nam là testosterone. Estradiol thường bắt đầu hoạt động vào khoảng mười tuổi 10 còn testosterone thì chậm hơn vài tháng.[47] Có bằng chứng cho thấy những steroid này không chỉ tác động trực tiếp lên đặc điểm giới tính sơ cấpthứ cấp mà còn tác động lên sự phát triển và điều hòa của hệ miễn dịch,[48] kể cả tăng nguy cơ phát triển tự miễn dịch ở tuổi dậy thì và hậu dậy thì.[49] Còn có những bằng chứng cho thấy thụ thể mặt tế bào trên tế bào B và đại thực bào có thể phát hiện các hormone giới tính trong hệ.[50]

Hormone giới tính nữ 17-β-estradiol được chứng minh là điều chỉnh mức độ phản ứng miễn dịch,[51] còn một vài androgen ở nam như testosterone dường như ngăn ngừa phản ứng căng thăng với viêm nhiễm. Tuy nhiên, các androgen khác như DHEA lại làm tăng phản ứng miễn dịch.[52] Giống như ở nữ, hormone ở nam giới dường kiểm soát hệ miễn dịch nhiều hơn ở giai đoạn dậy thì và hậu dậy thì so với những giai đoạn khác trong cuộc đời trưởng thành của nam giới.[53]

Những thay đổi hình thể trong dậy thì như co tuyến ức cũng tác động đến phản ứng miễn dịch.[54]

Chú thích sửa

  1. ^ Fossen, Christian. “What is Biology?”. www.ntnu.edu (bằng tiếng Anh). Đại học Khoa học và Công nghệ Na Uy. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2024.
  2. ^ Villani AC, Sarkizova S, Hacohen N (tháng 4 năm 2018). “Systems Immunology: Learning the Rules of the Immune System”. Annual Review of Immunology. 36 (1): 813–42. doi:10.1146/annurev-immunol-042617-053035. PMC 6597491. PMID 29677477.
  3. ^ “Hypersensitivities”. courses.lumenlearning.com (bằng tiếng Anh). Nursing Hero. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2024.
  4. ^ “Specific Disease Types”. primaryimmune.org (bằng tiếng Anh). Immune Deficiency Foundation. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2024.
  5. ^ “Transplant rejection: MedlinePlus Medical Encyclopedia”. medlineplus.gov (bằng tiếng Anh). Thư viện Quốc gia Y học Hoa Kỳ. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2024.
  6. ^ Pierce CW, Solliday SM, Asofsky R (tháng 3 năm 1972). “Immune responses in vitro. IV. Suppression of primary M, G, and A plaque-forming cell responses in mouse spleen cell cultures by class-specific antibody to mouse immunoglobulins”. The Journal of Experimental Medicine. 135 (3): 675–97. doi:10.1084/jem.135.3.675. PMC 2139142. PMID 4536706.
  7. ^ Miyahara S, Yokomuro K, Takahashi H, Kimura Y (tháng 11 năm 1983). “Regeneration and the immune system. I. In vitro and in vivo activation of lymphocytes by liver regeneration and the role of Kupffer cells in stimulation”. European Journal of Immunology. 13 (11): 878–83. doi:10.1002/eji.1830131104. PMID 6227489.
  8. ^ Racine, Valerie (5 tháng 7 năm 2014). “Ilya Ilyich Mechnikov (Elie Metchnikoff) (1845–1916)”. The Embryo Project (bằng tiếng Anh). Đại học Bang Arizona. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2024.
  9. ^ “Phagocytosis: Definition, Process, & Examples”. Encyclopedia Britannica (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2024.
  10. ^ “Definition of immunity in English”. Oxford Dictionaries (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2024.
  11. ^ Lee DK, Hakim FT, Gress RE (tháng 10 năm 2010). “The thymus and the immune system: layered levels of control”. Journal of Thoracic Oncology. 5 (10 Suppl 4): S273–76. doi:10.1097/JTO.0b013e3181f20474. PMC 2951290. PMID 20859118.
  12. ^ Gherardi, E (2 tháng 1 năm 2007). “The Concept of Immunity. History and Applications”. Trường Y khoa Miễn dịch học, Đại học Pavia (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2024.
  13. ^ Rich, Robert R.; Chaplin, David D. (2019). “The Human Immune Response”. Clinical Immunology. Principles and Practice (ấn bản 5). tr. 3–17.e1. doi:10.1016/B978-0-7020-6896-6.00001-6. ISBN 9780702068966.
  14. ^ Janeway CA, Travers P, Walport M, Shlomchik MJ (2001). “Chapter 9: The Humoral Immune Response”. Immunobiology the immune system health & disease (ấn bản 5). New York: Garland. ISBN 978-0-8153-3642-6.
  15. ^ “What is immunology?”. www.immunology.org (bằng tiếng Anh). Hiệp hội miễn dịch học Vương quốc Anh. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2024.
  16. ^ Miller JJ, Valdes R (tháng 2 năm 1991). “Approaches to minimizing interference by cross-reacting molecules in immunoassays”. Clinical Chemistry. 37 (2): 144–53. doi:10.1093/clinchem/37.2.144. PMID 1993317.
  17. ^ “Transplant rejection: T-helper cell paradigm”. www.immunology.org (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Miễn dịch học Vương quốc Anh. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2024.
  18. ^ “Clinical Immunology and Allergy Competencies” (PDF) (bằng tiếng Anh). Đại học Bác sĩ và Phẫu thuật Hoàng gia Canada. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2024.
  19. ^ “Robert Koch | German bacteriologist”. Encyclopedia Britannica (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2024.
  20. ^ “Emil von Behring: The Founder of Serum Therapy”. www.nobelprize.org (bằng tiếng Anh). Giải Nobel. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2024.
  21. ^ Silverstein AM (1989). A history of immunology. San Diego: Academic Press. ISBN 978-0-12-643770-6. OCLC 909269335.
  22. ^ Tauber AI, Chernyak L (1991). Metchnikoff and the Origins of Immunology (bằng tiếng Anh). New York: Nhà xuất bản Đại học Oxford. ISBN 978-0-19-506447-6. OCLC 22906314.
  23. ^ Tauber AI (1994). “The Immune Self: Theory or Metaphor?”. Immunology Today (bằng tiếng Anh). Cambridge: Nhà xuất bản Đại học Cambridge. 15 (3): 134–6. doi:10.1016/0167-5699(94)90157-0. OCLC 4930079483. PMID 8172646.
  24. ^ Jerne NK (tháng 11 năm 1955). “The natural-selection theory of antibody selection”. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America. 41 (11): 849–57. Bibcode:1955PNAS...41..849J. doi:10.1073/pnas.41.11.849. PMC 534292. PMID 16589759.
  25. ^ Burnet FM (1959). The Clonal Selection Theory of Acquired Immunity (bằng tiếng Anh). Cambridge: Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
  26. ^ Burnet FM (1969). Cellular Immunology: Self and Notself. Cambridge: Cambridge University Press.
  27. ^ Bretscher P, Cohn M (tháng 9 năm 1970). “A theory of self-nonself discrimination”. Science. 169 (3950): 1042–49. Bibcode:1970Sci...169.1042B. doi:10.1126/science.169.3950.1042. PMID 4194660.
  28. ^ Tauber AI (1994). “The Immune Self: Theory or Metaphor?”. Immunology Today. Cambridge: Cambridge University Press. 15 (3): 134–6. doi:10.1016/0167-5699(94)90157-0. OCLC 4930079483. PMID 8172646.
  29. ^ a b Matzinger P (tháng 4 năm 2002). “The danger model: a renewed sense of self” (PDF). Science. 296 (5566): 301–05. Bibcode:2002Sci...296..301M. CiteSeerX 10.1.1.127.558. doi:10.1126/science.1071059. PMID 11951032.
  30. ^ Pradeu T, Vitanza E (2012). The limits of the self: immunology and biological identity. Oxford: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-977528-6. OCLC 793571104.
  31. ^ Langman RE, Cohn M (tháng 6 năm 2000). “A minimal model for the self-nonself discrimination: a return to the basics”. Seminars in Immunology. 12 (3): 189–95, discussion 257–344. doi:10.1006/smim.2000.0231. PMID 10910739.
  32. ^ Clark WR (2008). In defense of self: how the immune system really works. New York: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-533663-4. OCLC 917294223.
  33. ^ Coutinho A, Forni L, Holmberg D, Ivars F, Vaz N (1984). “From an antigen-centered, clonal perspective of immune responses to an organism-centered network perspective of autonomous reactivity of self-referential immune systems”. Immunological Reviews. 79: 151–68. doi:10.1111/j.1600-065x.1984.tb00492.x. PMID 6235170.
  34. ^ Irun C (2000). Tending Adam's garden: Evolving the cognitive immune self. San Diego: Academic Press.
  35. ^ Pradeu T, Carosella ED (tháng 11 năm 2006). “On the definition of a criterion of immunogenicity”. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America. 103 (47): 17858–61. Bibcode:2006PNAS..10317858P. doi:10.1073/pnas.0608683103. PMC 1693837. PMID 17101995.
  36. ^ Pradeu T, Jaeger S, Vivier E (tháng 10 năm 2013). “The speed of change: towards a discontinuity theory of immunity?” (PDF). Nature Reviews. Immunology. 13 (10): 764–69. doi:10.1038/nri3521. PMID 23995627.
  37. ^ Janeway CA, Goodnow CC, Medzhitov R (tháng 5 năm 1996). “Danger – pathogen on the premises! Immunological tolerance”. Current Biology. 6 (5): 519–22. doi:10.1016/S0960-9822(02)00531-6. PMID 8805259.
  38. ^ Vance RE (2000). “Cutting edge commentary: a Copernican revolution? Doubts about the danger theory”. Journal of Immunology. 165 (4): 1725–28. doi:10.4049/jimmunol.165.4.1725. PMID 10925247.
  39. ^ Matzinger P (tháng 5 năm 2012). “The evolution of the danger theory. Interview by Lauren Constable, Commissioning Editor”. Expert Review of Clinical Immunology. 8 (4): 311–17. doi:10.1586/eci.12.21. PMC 4803042. PMID 22607177.
  40. ^ Pradeu T, Cooper EL (2012). “The danger theory: 20 years later”. Frontiers in Immunology. 3: 287. doi:10.3389/fimmu.2012.00287. PMC 3443751. PMID 23060876.
  41. ^ Goldsby RA, Kindt TK (2003). Immunology (ấn bản 5). San Francisco: W.H. Freeman. ISBN 978-0-7167-4947-9.
  42. ^ Ejiofor OS, Ajunwa OM, Ezeudu CE, Emechebe GO, Okeke KN, Ifezulike CC, Ekejindu IM, Okoyeh JN, Osuala EO, Oli AN (2018). “The Bacteriology and Its Virulence Factors in Neonatal Infections: Threats to Child Survival Strategies”. Journal of Pathogens. 2018: 4801247. doi:10.1155/2018/4801247. PMC 6077539. PMID 30112215.
  43. ^ a b c Jaspan HB, Lawn SD, Safrit JT, Bekker LG (tháng 2 năm 2006). “The maturing immune system: implications for development and testing HIV-1 vaccines for children and adolescents”. AIDS. 20 (4): 483–94. doi:10.1097/01.aids.0000210602.40267.60. PMID 16470112.
  44. ^ “Neonatal Immunology | British Society for Immunology”. www.immunology.org.
  45. ^ Glezen WP (tháng 12 năm 2001). “Maternal vaccines”. Primary Care. 28 (4): 791–806, vi–vii. doi:10.1016/S0095-4543(05)70041-5. PMID 11739030.
  46. ^ Holt PG, Macaubas C, Cooper D, Nelson DJ, McWilliam AS (1997). Th-1/Th-2 switch regulation in immune responses to inhaled antigens. Role of dendritic cells in the aetiology of allergic respiratory disease. Advances in Experimental Medicine and Biology. 417. tr. 301–06. doi:10.1007/978-1-4757-9966-8_49. ISBN 978-1-4757-9968-2. PMID 9286377.
  47. ^ Sizonenko PC, Paunier L (tháng 11 năm 1975). “Hormonal changes in puberty III: Correlation of plasma dehydroepiandrosterone, testosterone, FSH, and LH with stages of puberty and bone age in normal boys and girls and in patients with Addison's disease or hypogonadism or with premature or late adrenarche”. The Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism. 41 (5): 894–904. doi:10.1210/jcem-41-5-894. PMID 127002.
  48. ^ Verthelyi D (tháng 6 năm 2001). “Sex hormones as immunomodulators in health and disease”. International Immunopharmacology. 1 (6): 983–93. doi:10.1016/S1567-5769(01)00044-3. PMID 11407317.
  49. ^ Stimson WH (tháng 9 năm 1988). “Oestrogen and human T lymphocytes: presence of specific receptors in the T-suppressor/cytotoxic subset”. Scandinavian Journal of Immunology. 28 (3): 345–50. doi:10.1111/j.1365-3083.1988.tb01459.x. PMID 2973658.
  50. ^ Benten WP, Stephan C, Wunderlich F (tháng 6 năm 2002). “B cells express intracellular but not surface receptors for testosterone and estradiol”. Steroids. 67 (7): 647–54. doi:10.1016/S0039-128X(02)00013-2. PMID 11996938.
  51. ^ Beagley KW, Gockel CM (tháng 8 năm 2003). “Regulation of innate and adaptive immunity by the female sex hormones estradiol and progesterone”. FEMS Immunology and Medical Microbiology. 38 (1): 13–22. doi:10.1016/S0928-8244(03)00202-5. PMID 12900050.
  52. ^ Kanda N, Tamaki K (tháng 2 năm 1999). “Estrogen enhances immunoglobulin production by human PBMCs”. The Journal of Allergy and Clinical Immunology. 103 (2 Pt 1): 282–88. doi:10.1016/S0091-6749(99)70503-8. PMID 9949320.
  53. ^ Vigil P, Del Río JP, Carrera B, ArÁnguiz FC, Rioseco H, Cortés ME (tháng 8 năm 2016). “Influence of sex steroid hormones on the adolescent brain and behavior: An update”. Linacre Q. 83 (3): 308–329. doi:10.1080/00243639.2016.1211863. PMC 5102198. PMID 27833209.
  54. ^ McFarland RD, Douek DC, Koup RA, Picker LJ (tháng 4 năm 2000). “Identification of a human recent thymic emigrant phenotype”. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America. 97 (8): 4215–20. Bibcode:2000PNAS...97.4215M. doi:10.1073/pnas.070061597. PMC 18202. PMID 10737767.

Liên kết ngoài sửa