Mikhail Sergeyevich Gorbachyov
Mikhail Sergeyevich Gorbachyov[f][g] (chính tả tiếng Anh: Gorbachev; 2 tháng 3 năm 1931 – 30 tháng 8 năm 2022) là một chính khách Xô-viết người Nga và là nhà lãnh đạo thứ tám của Liên Xô từ năm 1985 cho đến khi quốc gia này sụp đổ vào năm 1991. Ông đảm nhận chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1985 và cương vị nguyên thủ quốc gia từ năm 1988, cùng các cương vị Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô giai đoạn 1988-1989, Chủ tịch Xô viết Tối cao giai đoạn 1989-1990 và Tổng thống Liên Xô giai đoạn 1990-1991. Về ý thức hệ, tuy ban đầu kiên định chủ nghĩa Marx-Lenin, Gorbachyov sau ngả theo tư tưởng dân chủ xã hội hồi đầu thập niên 90.
Mikhail Sergeyevich Gorbachyov | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Михаи́л Серге́евич Горбачёв | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() Chân dung Gorbachev năm 1987 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nhiệm kỳ 11 tháng 3 năm 1985 – 24 tháng 8 năm 1991[a] | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thủ tướng | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Cấp phó | Vladimir Ivashko | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Konstantin Chernenko | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Kế nhiệm | Vladimir Ivashko (thay quyền) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() Tổng thống Liên Xô | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nhiệm kỳ 15 tháng 3 năm 1990 – 25 tháng 12 năm 1991[b] | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Phó Tổng thống | Gennady Yanayev[c] | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Mới lập | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Kế nhiệm | Bãi bỏ[d] | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sinh | Privolnoye, Nga Xô, Liên Xô (nay là Privolnoye, Stavropol Krai, Nga) | 2 tháng 3 năm 1931||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Mất | 30 tháng 8 năm 2022 Moskva, Nga | (91 tuổi)||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nơi an nghỉ | Nghĩa trang Novodevichy, Moskva | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Đảng chính trị |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Phối ngẫu | Raisa Titarenko (cưới 1953–1999) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Con cái | 1 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Alma mater | Đại học Quốc gia Moskva (LLB) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Tặng thưởng | Giải Nobel Hòa bình (1990) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chữ ký | ![]() | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Website | Trang web chính thức | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Quyền ủy viên
Quyền thành viên khác
|
Gorbachyov chào đời tại Privolnoye, Nga Xô viết, trong một gia đình bần cố nông gốc gác Nga-Ukraina. Lớn lên dưới thời đại I. V. Stalin, ông hồi trẻ từng vận hành các máy gặt đập liên hợp ở những nông trang tập thể trước khi gia nhập Đảng Cộng sản Liên Xô. Học tập tại Đại học Quốc gia Moskva, ông kết hôn với người đồng môn Raisa Titarenko vào năm 1953 và nhận văn bằng luật vào năm 1955. Chuyển tới sinh sống ở Stavropol, ông làm việc cho tổ chức thanh thiếu niên Komsomol. Sau khi Stalin qua đời, Gorbachyov ủng hộ các chính sách phi Stalin hóa của nhà lãnh đạo Nikita Khrushchev. Năm 1970, ông được bổ nhiệm làm Bí thư thứ nhất Khu ủy Stavropol, chịu trách nhiệm giám sát dự án kênh đào Stavropol. Năm 1978, ông về Moskva và giữ chức bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1979, ông trở thành ủy viên Bộ Chính trị. Ba năm sau khi Leonid Brezhnev qua đời – theo sau các nhiệm kỳ gian đoạn của Yuri Andropov và Konstantin Chernenko – vào năm 1985, Bộ Chính trị đề cử cho Gorbachyov giữ chức Tổng Bí thư.
Tuy đã cam kết bảo tồn nhà nước Xô viết và tư tưởng Marx-Lenin, Gorbachyov tin rằng điều cấp thiết bấy giờ là một đợt cải cách triệt để. Ông cho rút quân khỏi Afghanistan, tham dự các hội nghị thượng đỉnh với Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan nhằm xoa dịu nguy cơ chiến tranh hạt nhân và hướng đến kết thúc Chiến tranh Lạnh. Về đối nội, chính sách glasnost của ông đã mở rộng đáng kể quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, còn chính sách perestroika đi đôi đã phi tập trung hóa ít nhiều nền kinh tế để nó có thể hoạt động trơn tru hơn. Các biện pháp dân chủ hóa của Gorbachyov và sự thành lập của Đại hội Đại biểu Nhân dân Liên Xô đã ảnh hưởng xấu đến chế độ độc đảng của nước này. Gorbachyov từ chối can thiệp quân sự vào các nước Khối Đông định từ bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin trong giai đoạn 1989–1992. Ở nước nhà, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc đã đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của Liên Xô; điều đã khiến phái kiên định chủ nghĩa Marx–Lenin liều lĩnh thực hiện cuộc đảo chính chống Gorbachyov vào năm 1991. Với cuộc chính biến bất thành ấy, Liên Xô rốt cuộc tan rã trái với nguyện vọng của Gorbachyov. Sau thời gian đó, ông thành lập Quỹ Gorbachyov, rồi trở thành nhân vật bất đồng chính kiến chỉ trích hai tổng thống Nga Boris Yeltsin và Vladimir Putin, đồng thời vận động phong trào dân chủ xã hội ở Nga.
Gorbachyov được coi là một trong những nhân vật cực kỳ có ảnh hưởng nửa sau thế kỷ thứ 20. Ông được phương Tây khen ngợi vì vai trò quan trọng trong việc chấm dứt Chiến tranh Lạnh, mở ra một thời kỳ chính trị mới ở Liên Xô, cũng như vai trò của ông đối với sự sụp đổ của các chính quyền theo chủ nghĩa Marx–Lenin ở Đông và Trung Âu, dẫn đến sự thống nhất của nước Đức. Ở nước nhà, ông thường bị chê trách vì đã khiến Liên Xô tan rã – sự kiện mà đã làm suy yếu đáng kể ảnh hưởng của Nga trên chính trường quốc tế và hối thúc sự sụp đổ của nền kinh tế Nga cùng các nước thân cận.
Đầu đời và giáo dục Sửa đổi
Thời thơ ấu: 1931–1950 Sửa đổi
Gorbachev chào đời ngày 2 tháng 3 năm 1931 tại làng Privolnoye, hồi ấy thuộc vùng Krai Bắc Kavkaz, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga, Liên Xô.[1] Hai sắc tộc lớn nhất ở vùng Privolnoye lúc bấy giờ là người Nga và người Ukraina.[2] Phía nội của Gorbachev mang dòng máu Nga, di cư tới đây từ vùng Voronezh mấy thế hệ trước; phía ngoại của ông mang dòng máu Ukraina, di cư tới đây từ vùng Chernihiv.[3] Ông được đặt tên là Viktor lúc mới sinh, song theo mong muốn của mẹ – một tín đồ Chính thống giáo ngoan đạo – Gorbachev được rửa tội bí mật và được ban cho cái tên Kitô là Mikhail.[4] Ông có quan hệ rất gần gũi với thân phụ Sergey Andreyevich Gorbachev, song lại lạnh lẽo và xa cách thân mẫu Maria Panteleyevna Gorbacheva (nhũ danh Gopkalo).[5] Cha mẹ Gorbachev đều sinh thành trong những gia đình bần nông nghèo cùng;[6] hai người kết hôn vào năm 1928 khi còn là thanh niên.[7] Theo phong tục địa phương, ban đầu họ chung sống trong căn nhà tranh đắp vách gạch sống bên nội của Sergey rồi mới chuyển ra ở riêng.[8]
Liên bang Xô viết là một nhà nước độc đảng được điều hành bởi Đảng Cộng sản Liên Xô, và thời thơ ấu của Gorbachev nằm dưới thời đại của Joseph Stalin. Stalin cho khởi động dự án tập thể hóa nông trang diện rộng, hành động thực tiễn mà theo chủ thuyết Marx–Lenin sẽ giúp xã hội Xô viết quá độ lên giai đoạn xã hội chủ nghĩa.[9] Ông ngoại của Gorbachev gia nhập Đảng Cộng sản và góp phần xây dựng kolkhoz (nông trang tập thể) đầu tiên của ngôi làng vào năm 1929, trở thành chủ tịch của nó.[10] Nông trang này cách bên ngoài làng Privolnoye 19 kilômét (12 mi). Năm lên ba, Gorbachev chia cách bố mẹ và chuyển tới sống ở kolkhoz cùng ông bà ngoại.[11]
Liên Xô trải qua nạn đói nghiêm trọng giai đoạn 1930–1933, khiến hai cô chú bên nội của Gorbachev thiệt mạng.[12] Ngay sau đó, Stalin khơi mào cuộc Đại thanh trừng, trong đó những người bị coi là "kẻ thù của nhân dân", bao gồm những người có cảm tình với các dòng Marxist đối lập như chủ nghĩa Trotsky, bị bắt và áp giải tới các trại lao động tập trung, hoặc tệ hơn thì bị xử tử. Cả hai người ông của Gorbachev đều bị bắt giữ (ngoại vào năm 1934 và nội vào năm 1937) và đưa tới các trại lao động Gulag.[13] Sau khi được trả tự do vào tháng 12 năm 1938, ông ngoại của Gorbachev kể lại rằng mình đã bị tra tấn bởi lực lượng cảnh sát mật OGPU, câu chuyện mà ám ảnh cậu bé Gorbachev suốt đời.[14]
Theo sau sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai, Đức Quốc xã tiến hành xâm lược Liên Xô vào tháng 6 năm 1941. Quân Đức chiếm đóng Privolnoye trong vòng bốn tháng rưỡi vào năm 1942.[15] Khi ấy, cha của Gorbachev đã gia nhập Hồng quân, vào sinh ra tử tại Trận Kursk; tuy chịu nhiều thương tích, ông sống sót trở về và đoàn tụ với gia đình.[16] Sau khi Đức Quốc xã bị đánh bại, vào năm 1947, cha mẹ Gorbachev sinh hạ con trai thứ hai, đặt tên là Aleksandr.[7]
Ngôi trường làng nơi Gorbachev theo học đóng cửa suốt phần lớn cuộc chiến, chỉ mở cửa lại vào mùa thu năm 1944.[17] Gorbachev chán ngấy khi nghĩ đến ngày tựu trường, song một khi đi học thì điểm số trên lớp cực kỳ xuất sắc.[18] Ông rất ham mê đọc sách, nào là tiểu thuyết phương Tây của Thomas Mayne Reid, nào là các tác phẩm của các văn hào Nga như Vissarion Belinsky, Alexander Pushkin, Nikolai Gogol, và Mikhail Lermontov.[19] Năm 1946, ông gia nhập đoàn thanh niên Xô viết Komsomol, trở thành lãnh đạo của một chi bộ địa phương, sau được tiến cử lên ủy ban quận của Komsomol. Gorbachev học cấp ba ở Molotovskoye, thường trú hằng tuần ở đó và cuốc bộ 19 km (12 mi) về nhà mỗi cuối tuần. Ông sôi nổi tham gia hội kịch nghệ của trường,[20] hăng hái tổ chức các hoạt động thể thao xã hội, và tình nguyện làm lớp trưởng lớp thể dục buổi sáng.[21] Suốt 5 đợt hè từ năm 1946 trở đi, ông về quê để giúp bố vận hành các máy gặt đập liên hợp, có khi làm cật lực 20 tiếng mỗi ngày.[22] Năm 1948, hai bố con đã thu hoạch tổng cộng 8.000 tạ thóc; thành tích mà đã giúp Sergey được trao Huân chương Lenin và Gorbachev được trao Huân chương Cờ đỏ Lao động.[23]
Đại học: 1950–1955 Sửa đổi
— Thư Gorbachev gửi Đảng Cộng sản năm 1950, tạm dịch theo Taubman (2017:42)
Tháng 6 năm 1950, Gorbachev trở thành ứng cử viên Đảng Cộng sản.[24] Ông cũng nộp đơn vào trường Luật của Đại học Quốc gia Moskva (MSU), cơ sở đại học danh giá nhất ở Liên Xô lúc bấy giờ. Ông được nhận mà không cần thi đầu vào, có lẽ vì chiếu cố cho gia cảnh nghèo khó và nhờ tấm Huân chương Cờ đỏ Lao động do ông được trao tặng.[25] Lựa chọn học luật của ông khá bất thường, bởi lẽ ngành này không được coi trọng mấy trong xã hội Xô viết lúc đó.[26] Năm 19 tuổi, ông bắt tàu hỏa lên Moskva; đây cũng là lần đầu tiên ông rời khỏi quê nhà.[27]
Ở Moskva, Gorbachev sống chung với các sinh viên MSU trong kí túc xá tại Quận Sokolniki.[28] Ông và các sinh viên vùng quê cảm thấy lạc lõng khi sống trên thành phố, song cũng nhanh chóng làm quen được với môi trường xung quanh.[29] Những người đồng môn kể rằng Gorbachev rất chăm chỉ, hay thức khuya để học.[30] Ông trở nên nổi tiếng với vai trò người hòa giải trong các cuộc cãi vã,[31] được biết vì tính tình bộc trực, song một số quan điểm thực sự thì chỉ giữ trong lòng và giãi bày khi nói chuyện riêng; chẳng hạn, ông nói riêng với các bạn học rằng, mình phản đối tiêu chuẩn pháp lý của Liên Xô lúc bấy giờ, theo đó thì tòa án chỉ cần một lời thú tội là đã quy kết bị cáo mà không cần quan tâm rằng lời thú ấy có bị ép buộc hay không.[32]
Bước đầu trong Đảng Cộng sản Liên Xô Sửa đổi
Komsomol ở Stavropol: 1955–1969 Sửa đổi
Tháng 8 năm 1955, Gorbachev bắt đầu công tác tại văn phòng biện lý Stavropol, song vì chán nản công việc mà chuyển sang làm cho Komsomol nhờ mối quan hệ rộng.[33] Ông được cho giữ chức phó giám đốc sở tuyên truyền và cổ động của Komsomol địa phương,[34] có nhiệm vụ đi thăm làng mạc và cố gắng cải thiện đời sống sinh hoạt của bà con tại đó; ông đã cho thành lập một hội thảo luận tại làng Gorkaya Balka để nông dân địa phương tiện giao du.[35]
Mikhail Gorbachev và người vợ Raisa ban đầu thuê một căn hộ nhỏ ở Stavropol;[36] họ thường dạo phố vào mỗi buổi chiều và đi bộ đường trường ở vùng ngoại ô vào cuối tuần.[37] Tháng 1 năm 1957, Raisa sinh con gái đầu lòng tên là Irina.[38] Năm 1958, gia đình họ chuyển tới sống trong một căn chung cư hai phòng.[39] Năm 1961, Gorbachev bắt đầu học lấy văn bằng hai về sản xuất nông nghiệp; ông theo khóa giáo dục từ xa của Viện Nông nghiệp Stavropol, và rồi được trao chứng chỉ vào năm 1967.[40] Vợ ông cũng theo đuổi văn bằng hai, trở thành Tiến sĩ ngành xã hội học tại Đại học Sư phạm Quốc gia Moskva vào năm 1967.[41] Trong những năm tháng ở Stavropol, Raisa cũng gia nhập Đảng Cộng sản Liên Xô.[42]
Sau khi Stalin mất, lãnh tụ mới của Liên Xô là Khrushchev tố cáo chế độ cũ và tục sùng bái cá nhân Stalin trong bài diễn văn bí mật vào tháng 2 năm 1956, rồi ngay lập tức thực thi chính sách phi Stalin hóa mọi mặt đời sống xã hội Liên Xô.[43] Nhà nghiên cứu tiểu sử William Taubman cho rằng Gorbachev "là hiện thân" của "tinh thần cải lương" dưới thời đại Khrushchev.[44] Ông thuộc trong số những người tự coi mình là "Marxist chính danh" hoặc "Leninist chính danh"; những người chống đối tư tưởng Stalinist mà họ coi là đồi bại.[45] Gorbachev nhiệt tình tham gia tuyên truyền thông điệp bài trừ Stalin ở Stavropol; song trong quá trình công tác, ông vẫn gặp nhiều người tôn vinh Stalin như anh hùng hoặc ủng hộ các cuộc thanh trừng do Stalin khơi mào.[46]
Gorbachev thăng tiến nhanh chóng trong nội bộ chính quyền địa phương, và giới chức cũng rất tin cậy ông về mặt chính trị.[47] Với kĩ năng chính trị láu lỉnh của mình, một số đối thủ đồng cấp đã rất đố kị với thành công của Gorbachev.[48] Tháng 9 năm 1956, ông được bầu làm Bí thư thứ nhất của Komsomol Stavropol, chịu trách nhiệm điều hành nó;[49] vào tháng 4 năm 1958, ông trở thành phó trưởng của Komsomol toàn khu vực.[50] Tới lúc này thì ông đã được nhà nước bàn giao cho một căn hộ khang trang hơn: có hai phòng ngủ, một phòng bếp, một phòng vệ sinh, và một phòng tắm riêng.[51] Ở Stavropol, ông thành lập một hội nhóm đàm luận cho thanh niên,[52] và huy động những người trẻ tham gia vào các chiến dịch phát triển nông nghiệp của Khrushchev.[53]
Tháng 3 năm 1961, Gorbachev trở thành Bí thư thứ nhất của Komsomol địa phương,[54] cố gắng nới lỏng bầu cử để nhiều phụ nữ có cơ hội lên giữ chức thị trưởng hoặc quận trưởng hơn.[55] Năm 1961, Gorbachev tiếp đón đoàn đại biểu Ý tới dự Ngày hội Thanh niên Thế giới ở Moskva;[56] tháng 10 cùng năm, ông dự Đại hội lần thứ 22 Đảng Cộng sản Liên Xô.[57] Tháng 1 năm 1963, ông giữ chức trưởng nhân sự của ủy ban nông dân địa phương.[58] Tháng 9 năm 1966, ông trở thành Bí thư thứ nhất Tổ chức Đảng Khu ủy Stavropol ("Gorkom").[59] Tới năm 1968, ông bắt đầu chán nản việc công chức – phần lớn vì nhận thấy rằng các cải cách của Khrushchev đang bị đình trệ và đảo ngược – và từng cân nhắc bỏ nghiệp chính trị để theo nghiệp học thuật.[60] Tuy nhiên, vào tháng 8 năm 1968, ông được bầu làm Bí thư thứ hai của Kraikom Stavropol, tức là cấp phó của Bí thư thứ nhất Leonid Yefremov và là quan chức cao cấp thứ hai ở Stavrapol.[61] Năm 1969, ông trở thành phó chức Xô viết Tối cao Liên Xô và trở thành ủy viên Ban Thường vụ Bảo vệ môi trường.[62]
Được tự do di chuyển giữa các nước Khối Đông, Gorbachev cùng đoàn đại biểu Liên Xô sang thăm Đông Đức vào năm 1966, rồi Bulgaria vào năm 1969 và 1974.[63] Tháng 8 năm 1968, Liên Xô xâm lược Tiệp Khắc để dập tắt cuộc biến loạn Mùa xuân Prague chống chủ nghĩa Marx–Lenin. Tuy Gorbachev công khai ủng hộ chiến dịch quân sự, thực chất thì ông giữ kín mối quan ngại về vấn đề này.[64] Tháng 9 năm 1969, ông tham gia đoàn đại biểu Xô viết tới Tiệp Khắc, nhận thấy rằng nhân dân nơi đây không mấy thân thiện đối với ông.[65] Cùng năm đó, chính quyền Xô viết ra lệnh cho ông kỷ luật Fagim B. Sadykov , giáo sư triết học của học viện nông nghiệp Stavropol, vì thể hiện tư tưởng chống đối chính sách nông nghiệp của nhà nước; Gorbachev đành sa thải Sadykov, song từ chối áp dụng chế tài xử phạt nặng hơn đối với ông này.[66] Gorbachev về sau chia sẻ rằng ông "đã bị ảnh hưởng sâu sắc" bởi biến cố này; giãi bày rằng "lương tâm dằn vặt tôi" vì đã đào thải Sadykov.[67]
Đứng đầu Khu ủy Stavropol: 1970–1977 Sửa đổi
Tháng 4 năm 1970, Yefremov lên công tác ở thủ đô Moskva và Gorbachev nối gót làm Bí thư thứ nhất của Kraikom Stavropol.[68] Các nhà lãnh đạo ở Kremlin đã dò xét kĩ lưỡng sơ yếu lý lịch của Gorbachev để trao cho ông vị trí này.[69] Mới 39 tuổi, ông trẻ hơn đáng kể so với người tiền nhiệm.[70] Với tư cách là người đứng đầu Khu ủy Stavropol, ông tự động trở thành ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (khóa 24) vào năm 1971.[71] Theo lời nhà viết tiểu sử Zhores Medvedev, Gorbachev "bấy giờ đã gia nhập lớp siêu tinh hoa của Đảng Cộng sản".[72] Ở địa phương, Gorbachev ban đầu quy kết các sai lầm kinh tế cho "sự không hiệu quả và trình độ kém cỏi của các cán bộ, những thiếu sót trong cấu trúc quản lý, hoặc những kẽ hở trong lập pháp", song rốt cuộc phải thú nhận rằng chúng là hậu quả của sự tập trung hóa quá mức quyết định ở Moskva.[73] Trong thời gian này, Gorbachev bắt đầu đọc các tác phẩm Marxist Tây phương của các văn sĩ như Antonio Gramsci, Louis Aragon, Roger Garaudy, và Giuseppe Boffa, vậy nên chịu ảnh hưởng tư tưởng của họ.[73]
Nhiệm vụ chính của Gorbachev ở địa phương, nâng cao sản lượng nông nghiệp, bị cản trở bởi hai đợt hạn hán nghiêm trọng liên tiếp vào năm 1975 và 1976.[74] Gorbachev giám sát công tác xây dựng Kênh đào Stavropol nhằm mở rộng hệ thống tưới tiêu ở nơi đây.[75] Vì kỳ tích quận Ipatovsky bội thu ngũ cốc, vào tháng 3 năm 1972, ông được trao tặng Huân chương Cách mạng Tháng Mười bởi Brezhnev trong một lễ liên hoan ở Moskva.[76] Gorbachev luôn tìm cách chiếm được lòng tin của Brezhnev;[77] với tư cách khu ủy trưởng, Gorbachev liên tục khen ngợi Brezhnev trong các bài diễn văn, từng có lần ví ông ta như là "vị chính khách nổi bật của thời đại chúng ta".[78] Gorbachev và vợ dành kỳ nghỉ đi thăm thú Moskva, Leningrad, Uzbekistan, và Bắc Kavkaz.[79] Ông cũng nhân dịp ấy để kết thân với thủ trưởng KGB, Yuri Andropov, người mà rất có thiện cảm với ông và về sau trở thành một người chống lưng đắc lực cho Gorbachev.[80] Gorbachev cũng có mối quan hệ hòa hảo với nhiều nhân vật quan trọng như thủ tướng Liên Xô Alexei Kosygin,[81] và đảng viên kỳ cựu Mikhail Suslov.[82]
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương KPSS Sửa đổi
Ngày 10 tháng 3 năm 1985, Chernenko qua đời.[83] Gromyko đề bạt cho Gorbachev giữ chức Tổng Bí thư; với tư cách là đảng viên cao cấp, lời gợi ý của Gromyko cực kì có trọng lượng trong Ủy ban Chấp hành Trung ương Đảng.[84] Gorbachev kỳ vọng sẽ có nhiều phản đối về việc ông được bầu lên chức Tổng Bí thư, song hóa ra phần lớn Bộ Chính trị ủng hộ ông.[85] Ít lâu sau cái chết của Chernenko, Bộ Chính trị nhất trí cho Gorbachev kế nhiệm,[86] chính thức trở thành nhà lãnh đạo thứ 8 của Liên Xô.[87] Ít người trong chính phủ tin rằng ông sẽ là một người cải lương triệt để như danh tiếng đã định.[88] Dân tình Liên Xô, tuy không biết nhiều về Gorbachev, cảm thấy nhẹ nhõm khi hay tin nhà lãnh đạo mới không già nua hay bệnh tật.[89] Lần xuất hiện đầu tiên của Gorbachev trước công chúng trên cương vị Tổng Bí thư là tại lễ quốc tang của Chernenko ở Quảng trường Đỏ, được cử hành vào ngày 14 tháng 3 năm 1985.[90] Hai tháng sau khi được tiến cử, ông tới Leningrad và phát biểu trước nhân dân của thành phố.[91] Ông tiếp tục đi Ukraina vào tháng 6, Belarus vào tháng 7, và Tyumen Oblast vào tháng 9, khuyến khích các đảng ủy ban ngành có trách nhiệm hơn trong công tác khắc phục các vấn đề địa phương.[92]
Những năm đầu: 1985–1986 Sửa đổi
Phong cách lãnh đạo của Gorbachev có thể coi là rất khác biệt so với những người tiền nhiệm. Ông thường dừng chân để trò chuyện với công dân trên đường phố, ngoài ra còn cấm tuyệt việc trưng bày ảnh chân dung của mình tại lễ hội 1985 trên Quảng trường Đỏ, đồng thời khuyến khích các ủy viên thảo luận cởi mở hơn tại các phiên họp của Bộ Chính trị.[93] Phương Tây nhìn nhận Gorbachev như một nhà lãnh đạo Liên Xô nhân nhượng và hiền hòa hơn; một số nhà bình luận phương Tây cho rằng đây là mưu kế của Liên Xô nhằm đánh lừa chính phủ của họ.[94] Vợ ông là cố vấn thân cận nhất của ông; bà được mệnh danh không chính thức là "đệ nhất phu nhân" trong các chuyến công du nước ngoài.[95] Các cố vấn thân cận khác của ông cũng bao gồm Georgy Shakhnazarov và Anatoly Chernyaev.[96]
Gorbachev nhận thức rõ rằng Bộ Chính trị có quyền miễn nhiệm ông, và chỉ một mình thì không thể thông qua các chính sách cải cách triệt để hơn, mà cần sự ủng hộ của đa số ủy viên trong Bộ Chính trị.[97] Ông bèn tìm cách loại bỏ một số thành viên kì cựu trong Bộ Chính trị, cố gắng thuyết phục Grigory Romanov, Nikolai Tikhonov, và Viktor Grishin nghỉ hưu.[98] Ông bổ nhiệm Gromyko làm thủ tướng, một chức danh biểu tượng không có mấy sức ảnh hưởng, và cho người đồng minh Eduard Shevardnadze thế chỗ Gromyko để lo công tác đối ngoại.[99] Những đồng minh khác được ông bổ nhiệm bao gồm Yakovlev, Anatoly Lukyanov, và Vadim Medvedev.[100] Đáng chú ý, Boris Yeltsin cũng thuộc trong số những người được Gorbachev trọng dụng, và được giao phó chức Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 26 vào tháng 7 năm 1985.[101] Hầu hết những nhân vật này đều là quan chức có học thức, thất vọng với thời kỳ Brezhnev.[102] Trong năm đầu tiên, 14 trên 23 trưởng ban trong Ban Bí thư bị thay thế.[103] Bằng cách này, Gorbachev đã củng cố đáng kể quyền lực đối với Bộ Chính trị chỉ trong vòng một năm, nhanh hơn hẳn các nỗ lực trước đó của Stalin, Khrushchev, hoặc Brezhnev.[104]
Chính sách đối nội Sửa đổi
Gorbachev liên tục nhấn mạnh phải tiến hành perestroika, khẩu ngữ được dùng lần đầu tiên vào tháng 3 năm 1984.[105] Ông nhìn nhận perestroika là sự bao hàm của một loạt các chính sách cải cách nhằm tái cơ cấu kinh tế xã hội.[106] Ông cảm thấy e ngại trước tình hình tiêu cực của Liên Xô lúc bấy giờ: sản lượng tụt hậu, đạo đức làm việc khốn cùng, hàng hóa kém chất lượng tràn làn;[107] giống nhiều nhà kinh tế học khác, ông lo sợ Liên Xô sẽ trở thành một đất nước hạng hại trên chính trường quốc tế.[108] Theo Gorbachev, giai đoạn đầu tiên của perestroika là uskoreniye ("tăng tốc"), một châm ngôn được ông dùng thường xuyên trong hai năm đầu cầm quyền.[109] Liên Xô bấy giờ yếu kém hơn Hoa Kỳ ở nhiều lĩnh vực sản xuất,[110] song Gorbachev khẳng định rằng uskoreniye sẽ đẩy mạnh đáng kể đầu ra công nghiệp và giúp Liên Xô sánh ngang với Hoa Kỳ vào năm 2000.[111] Kế hoạch Năm năm giai đoạn 1985–1990 đặt ra chỉ tiêu mở rộng công xưởng nhà máy từ 50 đến 100%.[112] Để kích thích sản lượng nông nghiệp, ông hợp nhất năm bộ ngành và một ủy ban nhà nước thành một cơ quan duy nhất gọi là Agroprom, tuy nhiên vào năm 1986 thì ông thú nhận đây là một sai lầm lớn.[113]
Mục đích của cải cách là hỗ trợ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung – chứ không nhằm chuyển sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tại cuộc họp với các bí thư hoạch định kinh tế trong ban chấp hành trung ương của các đảng cộng sản Đông Âu vào mùa hè năm 1985, Gorbachev đã nói: "Đa số quý vị tìm thấy lời giải cho các vấn đề của mình nhờ phương kế cơ chế thị trường thay thế hoạch định trực tiếp. Một số quý vị coi thị trường là đấng cứu tinh cho nền kinh tế của mình. Tuy nhiên, các đồng chí, các vị không nên nghĩ về đấng cứu tinh mà phải nghĩ về con thuyền, và con thuyền đó là chủ nghĩa xã hội."[114] Chính sách perestroika của Gorbachev cũng[115] kéo theo các nỗ lực nhằm từ bỏ sự quản lý mang tính kĩ trị đối với nền kinh tế bằng cách tăng cường lực lượng lao động tham gia vào sản xuất công nghiệp.[116] Ông cho rằng, một khi nền kinh tế đã thoát khỏi sự kiểm soát của các nhà kế hoạch tập trung, các doanh nghiệp do nhà nước sở hữu sẽ hoạt động như những tác nhân thị trường.[117] Gorbachev và các lãnh đạo Liên Xô cho rằng chính sách perestroika sẽ không vấp phải phản đối quá gay gắt; theo diễn giải Marxist của họ, một đất nước theo chủ nghĩa xã hội như Liên Xô thì sẽ không tồn tại "mâu thuẫn đối kháng".[118]
Chính sách đối ngoại Sửa đổi
Tháng 5 năm 1985, trong công hàm gửi đến Ngoại trưởng Liên Xô – đây cũng là lần đầu một lãnh đạo Liên Xô trao đổi trực tiếp với đại diện ngoại giao nhà nước – Gorbachev đã đề cập đến một "sự tái cơ cấu triệt để" chính sách ngoại giao.[119] Một vấn đề nhức nhối đối với nhiệm kỳ lãnh đạo của Gorbachev là sự sa lầy của Liên Xô trong cuộc Nội chiến Afghanistan đã kéo dài 5 năm ròng.[120] Suốt quá trình đó, Lục quân Xô viết đã chịu nhiều thiệt hại và chiến dịch bấy giờ cũng đang mất dần sự ủng hộ của công chúng cùng nhiều tướng lĩnh trong quân đội.[120] Ngay khi lên nắm quyền, Gorbachev nhận thức rõ rằng ưu tiên lúc này là rút quân khỏi Afghanistan.[121] Tháng 10 năm 1985, ông gặp mặt nhà lãnh đạo Marxist Afghanistan Babrak Karmal, thúc đẩy vị này tiến đến một thỏa hiệp chia sẻ quyền lực với các thế lực đối địch.[121] Cùng tháng, Bộ Chính trị chuẩn y quyết định rút quân khỏi Afghanistan của Gorbachev, nhưng phải tới tận tháng 2 năm 1989 thì dư quân mới triệt thoái hết.[122]
Gorbachev và Reagan đều muốn chủ trì một cuộc họp thượng đỉnh về vấn đề Chiến tranh Lạnh, song có nhiều thành phần phản đối ý định trong mỗi chính phủ tương ứng của họ.[123] Họ quyết định tổ chức một hội nghị thượng đỉnh ở Geneva, Thụy Sỹ, vào tháng 11 năm 1985.[124]
Các cải cách bổ sung: 1987–1989 Sửa đổi
Cải cách trong nước Sửa đổi
Tại phiên họp toàn thể của Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng 1 năm 1987, Gorbachev đã nêu lên vấn đề perestroika và dân chủ hóa, đồng thời chỉ trích nạn tham nhũng tràn lan.[126] Ông đã cân nhắc đến việc nêu thêm vấn đề bầu cử đa đảng, song rốt cuộc đổi ý.[127] Sau phiên họp, ông tập trung vào công cuộc cải cách kinh tế, hội ý với các quan chức chính phủ và các nhà kinh tế để vạch ra kế hoạch.[128] Các chuyên gia đề xuất giảm thiểu sự kiểm soát của các bộ đối với nền kinh tế và cho phép các tập đoàn quốc doanh tự đặt ra mục tiêu cho bản thân; Ryzhkov và một số chính khách khác hoài nghi trước giải pháp này.[129] Tháng 6 cùng năm, Gorbachev hoàn thiện báo cáo về cải cách kinh tế; theo đó thì các bộ trưởng vẫn có quyền đặt ra mục tiêu kinh tế, song các tập đoàn quốc doanh không bắt buộc phải đạt đúng mục tiêu đã được đề ra.[130] Phiên họp toàn thể cùng tháng chấp nhận đề nghị của Gorbachev và Xô viết tối cao thông qua "đạo luật tập đoàn" nhằm tiến hành cải cách.[131] Các vấn nạn kinh tế tuy vậy vẫn còn đó: cuối những năm 1980, hàng hóa cơ bản trên thị trường vẫn thiếu hụt, lạm phát tiếp tục tăng cao, mức sống người dân sụt giảm.[132] Bối cảnh này đã dẫn đến các cuộc đình công của thợ mỏ vào năm 1989.[133]
Làm sụp đổ Liên bang Xô Viết Sửa đổi
Trong làn sóng cách mạng 1989, phần lớn các quốc gia Marxist–Leninist ở Đông và Trung Âu tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng, dẫn đến sự biến chuyển thể chế chính trị.[134] Ở hầu hết các nước, chẳng hạn như Ba Lan và Hungary, việc này diễn ra trong hòa bình, song ở Rumani, cuộc cách mạng trở nên bạo lực, dẫn đến việc Ceaușescu bị lật đổ và hành quyết.[134]
Nhiệm kỳ tổng thống Liên Xô: 1990–1991 Sửa đổi
Tháng 2 năm 1990, cả hai phái tự do hóa và kiên định chủ nghĩa Marx–Lenin gia tăng sức ép lên Gorbachev.[135] Một cuộc diễu hành ủng hộ phái tự do hóa được tổ chức ở Moskva nhằm chỉ trích Đảng Cộng sản Liên Xô;[136] trong khi một cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng được triệu tập, trong đó thì người theo phái kiên định Vladimir Brovikov cáo buộc Gorbachev đã đưa Liên Xô theo con đường "vô chính phủ" và "bài hoại", theo đuổi các giá trị Tây phương mà quên đi lợi ích của Liên Xô cũng như lý tưởng Marx–Lenin.[137] Gorbachev nhận thức rõ rằng Ban Chấp hành Trung Ương Đảng vẫn có quyền loại ông khỏi chức Tổng Bí thư, vậy nên ông quyết định lập ra chức Tổng thống như là nguyên thủ quốc gia cao nhất mà Đảng không có quyền can thiệp.[138] Theo sự tái cơ cấu này, vị trí tổng thống chỉ có thể được bầu ra bởi Đại hội Đại biểu Nhân dân. Ông lựa chọn điều này thay vì một cuộc bầu cử công cộng bởi lẽ e sợ sự leo thang căng thẳng và dễ để mất chức vụ;[139] tuy nhiên một điều tra năm 1990 đã hé lộ rằng ông vẫn là chính khách được lòng dân nhất.[140]
Vào tháng 3 cùng năm, Đại hội Đại biểu Nhân dân tổ chức cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên (và cũng là duy nhất) trong lịch sử Liên Xô, trong đó thì Gorbachev là ứng cử viên duy nhất. Ông nhận 1.329 phiếu thuận và 495 phiếu chống; 313 phiếu vô hiệu hoặc vắng mặt. Do vậy, ông đã trở thành Tổng thống Liên Xô đầu tiên.[141] Một Hội đồng cố vấn tổng thống gồm 18 người trên danh nghĩa được lập ra để thay thế Bộ Chính trị.[142] Tại cùng cuộc họp Đại hội đó, ông đề xuất thay thế Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô, trong đó tuyên bố Đảng Cộng sản là "đảng thống trị" duy nhất ở Liên Xô. Đại hội thông qua cải cách trên và gây phương hại de jure đến nhà nước độc đảng bấy lâu nay.[143]
Trong cuộc bầu cử Xô viết Tối cao Nga vào năm 1990, Đảng Cộng sản Liên Xô phải đối đầu với một liên minh tự do hóa tự xưng là "Nước Nga Dân chủ".[144] Yeltsin giành được một ghế nghị viện, điều mà khiến Gorbachev không mấy hài lòng.[145] Cùng năm đó, các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy Yeltsin đã hạ bệ Gorbachev với tư cách là chính khách được quý mến nhất ở Liên Xô.[140] Gorbachev không thể hiểu được tại sao Yeltsin lại có được danh vọng như vậy, bình rằng: "hắn ta uống như cá ... hắn nói năng ú ớ, hẵn nghĩ ra đủ loại ý tưởng có quỷ mới biết, hắn cứ như là bản ghi đã lỗi thời vậy".[146] Cơ quan Xô viết Tối cao Nga giờ đây nằm ngoài tầm kiểm soát của Gorbachev.[146] Vào tháng 6 năm 1990, Xô viết Tối cao Nga ra tuyên bố rằng luật lệ của nó được ưu tiên trước các luật lệ của chính phủ trung ương Xô viết.[147] Vì làn sóng dân tộc chủ nghĩa Nga dâng cao lúc bấy giờ, Gorbachev đã phải bất đắc dĩ ủng hộ sự thành lập của Đảng Cộng sản Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga như một nhánh trực thuộc của Đảng Cộng sản Liên Xô. Gorbachev tới dự đại hội đầu tiên của nó vào tháng 6, song dần nhận ra rằng phần lớn những người bên trong theo phái kiên định, chống lại các cải cách của ông.[148]
Tái thống nhất nước Đức và Chiến tranh Vùng Vịnh Sửa đổi
Tháng 1 năm 1990, Gorbachev đồng thuận riêng về sự tái thống nhất Đông Đức với Tây Đức, song từ chối ý kiến cho nước Đức giữ tư cách thành viên NATO của Tây Đức tiền thân.[149] Ý tưởng cho Đức tiếp tục là thành viên của cả NATO và Khối Warszawa không thu hút được mấy sự ủng hộ.[150] Ngày 9 tháng 2 năm 1990, trong một cuộc điện đàm với James Baker, khi đó là Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, ông bày tỏ lập trường "một khu vực NATO mở rộng là điều không thể chấp nhận được" mà Baker cũng đồng ý. Tháng 5 năm 1990, ông tới thăm Hoa Kỳ để hội kiến với Tổng thống Bush;[151] tại đây, ông chấp thuận rằng một nước Đức thống nhất có quyền tự được chọn liên minh với ai.[150] Rốt cuộc ông bằng lòng với việc thống nhất hai miền nước Đức với điều kiện binh lính NATO không được phép đóng ở phía Đông.[152]
Hoạt động chính trị sau khi từ chức Sửa đổi
Gorbachev đã thành lập Quỹ Gorbachev năm 1992. Năm 1993, ông cũng thành lập Chữ thập xanh quốc tế, cùng với tổ chức này ông là một trong ba nhà tài trợ cho Hiến chương Trái đất. Ông cũng là một thành viên Câu lạc bộ Rome.
Năm 1995 Gorbachev được Đại học Durham trao bằng Tiến sĩ danh dự vì đóng góp của mình cho "sự nghiệp khoan dung chính trị và chấm dứt xung đột kiểu chiến tranh lạnh". Năm 1996, Gorbachev chạy đua chức Tổng thống Nga nhưng chỉ nhận được khoảng 1% phiếu bầu, có lẽ vì sự thù ghét ông sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ. Trong khi đi vận động tranh cử, ông đã bị một người đàn ông vô danh đấm vào mặt. Năm 1997, Gorbachev đóng vai trong một đoạn phim quảng cáo Pizza Hut tại Hoa Kỳ để kiếm tiền cho Perestroika Archives.
Ngày 26 tháng 11 năm 2001, Gorbachev thành lập Đảng Dân chủ Xã hội Nga– là một liên minh giữa nhiều đảng dân chủ xã hội ở Nga. Ông đã từ chức lãnh đạo đảng tháng 5 năm 2004 sau khi có bất đồng với Chủ tịch đảng về đường lối chạy đua trong cuộc bầu cử tháng 12 năm 2003. Đầu năm 2004, Gorbachev đăng ký nhãn hiệu loại rượu vang đỏ mang nhãn cái bớt của mình, sau khi một công ty vodka đưa cái bớt này lên nhãn một trong các loại sản phẩm của mình để lợi dụng sự nổi tiếng của nó. Công ty này hiện không còn sử dụng mác đó nữa.[153]
Tháng 6 năm 2004, Gorbachev đại diện cho nước Nga tại lễ tang Ronald Reagan.
Tháng 9 năm 2004, sau khi quân du kích Chechen tấn công nước Nga, Tổng thống Vladimir Vladimirovich Putin đưa ra sáng kiến thay thế các cuộc bầu cử thống đốc địa phương bằng một hệ thống chỉ định trực tiếp từ Tổng thống và được Hội đồng Lập pháp địa phương thông qua. Gorbachev cùng với Yeltsin chỉ trích hành động của Putin, coi đó là một bước rời xa con đường dân chủ.[154]
Năm 2005, Gorbachev được trao Giải thưởng Point Alpha cho vai trò của mình trong việc ủng hộ thống nhất nước Đức. Ông cũng được Đại học Münster trao bằng Tiến sĩ danh dự[155] Ông từng là hội viên Câu lạc bộ Madrid.
Qua đời và di sản Sửa đổi
Ông qua đời ngày 30 tháng 8 năm 2022 tại Moskva sau 2 năm rưỡi chống chọi với tiểu đường và các vấn đề về thận[156][157], hưởng thọ 91 tuổi, theo tổng thống Nga Vladimir Vladimirovich Putin thông báo.[158][159] Tang lễ của ông theo nghi thức gần giống với Quốc tang sẽ được tổ chức vào ngày 3 tháng 9 năm 2022, và an táng chung người vợ của mình.[160]
Ở phương Tây và các nước Đông Âu ngoài Liên Xô, Gorbachev thường có thiện cảm như là người góp phần chấm dứt Chiến tranh Lạnh. Ví dụ, tại Đức, ông được hoan nghênh vì đã đồng ý không can thiệp để sự thống nhất nước Đức diễn ra. Tuy nhiên, tại Nga và các nước thuộc Liên Xô cũ, ông mang tiếng xấu vì bị coi là kẻ làm sụp đổ đất nước Liên Xô và chịu trách nhiệm về cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra sau đó. Đa số người Nga hiện nay đánh giá Gorbachev rất tiêu cực, có những người còn muốn truy tố ông ra tòa vì tội phản quốc.[161][162]
Từ năm 1991 đến cuối thế kỷ XX, tổng giá trị sản xuất trong nước (GDP) của Nga giảm xuống 52% so năm 1990 (trong khi đó, vào thời kỳ chiến tranh từ năm 1941 đến năm 1945 chỉ giảm 22%). Sản xuất công nghiệp giảm 64,5%, sản xuất nông nghiệp giảm 60,4%. Vật giá tăng cao hơn 5.000 lần. Sự sụp đổ của Liên Xô sau này được tổng thống Nga Putin gọi là "thảm họa địa chính trị tồi tệ nhất thế kỷ XX. Đối với nước Nga, nó đã trở thành một bi kịch thực sự. Hàng triệu công dân và những người yêu nước của chúng ta bỗng nhiên thấy họ đang sống bên ngoài lãnh thổ Nga.".[163]
Sau này vào tháng 5/1993, Gorbachev thăm Pháp đã trả lời phỏng vấn báo "Le Figaro" về khả năng "hỗ trợ bên ngoài" trong việc xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô, Gorbachev lần đầu tiên công nhận rằng trong cuộc gặp với Tổng thống Mỹ Ronald Reagan tại Reykjavik, ông đã "trao Liên Xô vào tay Mỹ" (trong hồi ký của mình, Reagan nói rằng ông ta đã bị sốc vì vui mừng khi biết một bộ phận trong giới chính trị cấp cao Liên Xô lại có tư tưởng chống Cộng). Sau này, năm 1999, tại trường đại học Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ, Gorbachev tự thú nhận: "Mục tiêu của toàn bộ đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Chính vì để đạt được mục tiêu này tôi đã sử dụng địa vị của mình trong Đảng và trong Nhà nước... Và để đạt được nó, tôi đã phải thay đổi toàn bộ Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô và Xô viết Tối cao cũng như Ban lãnh đạo ở tất cả các nước Cộng hoà. Tôi đã tìm kiếm những người ủng hộ để hiện thực hoá mục tiêu đó, trong số này đặc biệt có A. Yakovlev, Shevardnadze..."[164].
Chiến tranh tại Afghanistan đã bắt đầu từ cuối thập niên 1970, làm tiêu mòn các nguồn tài nguyên Xô viết. Cuộc chiến này và nhiều phong trào cách mạng tại các nước vệ tinh của Xô viết (được trợ cấp nhiều từ các chiến dịch bí mật của phương Tây), ví dụ nổi bật nhất là Ba Lan và Afghanistan, khiến Liên bang Xô viết phải chi ra những khoản tiền lớn nhằm giữ ổn định trật tự và giúp các chính phủ tại đó hoạt động. Một số người cho rằng cuộc chạy đua vũ trang của phương Tây cũng tạo sức ép khiến Liên Xô phải chịu những chi phí lớn mà lẽ ra có thể dùng để phát triển kinh tế. Hạ tầng kinh tế Xô viết rơi vào tình trạng suy sụp kể từ năm 1985 (khi Gorbachev lên nắm quyền) và các sự kiện đó có ảnh hưởng to lớn tới những quyết định của Gorbachev về tự do hoá. Cuối cùng, những nỗ lực nhằm cải cách nền kinh tế Liên bang Xô viết là quá chậm chạp, các nước vệ tinh cũng phải chịu một phần trách nhiệm, dẫn tới sự chấm dứt tồn tại của một giai đoạn đối đầu dài 50 năm giữa Đông và Tây.
Nhưng cũng có nhiều người khác, đặc biệt những người lớn tuổi đã từng trải qua cuộc sống ở Liên Xô cũ, tin rằng Liên bang Xô viết không phải ở tình trạng khủng hoảng kinh tế tồi tệ như đã từng được tuyên bố, và họ coi Gorbachev là một chính trị gia kém cỏi, người đã đưa ra những cải cách sai lầm. Ông bị coi là phải chịu trách nhiệm cho sự tan rã của Liên Xô, dẫn đến sự hỗn loạn kinh tế và chính trị ở Nga và không gian hậu Xô viết trong những năm 1990.
Trong những năm cuối đời, Lazar Moiseyevich Kaganovich đã nói trong một cuộc phỏng vấn rằng thời kỳ cầm quyền của Gorbachev chính là sự phá hủy trực tiếp đất nước. Năm 2012, tổ chức Liên minh các công dân Nga còn nộp đơn kiện Gorbachev với tội danh Phản bội Tổ quốc.[165]
Những quan điểm khác cho rằng Gorbachev không đáng bị đổ lỗi hoàn toàn cho sự sụp đổ của Liên Xô. Năm 2011, có 42% người Nga được hỏi cho rằng Gorbachev có vai trò chính trong sự tan rã Liên Xô, trong khi 37% cho rằng sự tan rã của Liên Xô chủ yếu là do nhiều yếu tố khách quan, còn Gorbachev không phải là nguyên nhân chính. Cuốn "Lịch sử hiện đại của Nga? Sách tham khảo dành cho giáo viên" do Filipov chủ biên cho rằng: "Sự nghiệp chính của Gorbachev là đạt được dân chủ hóa sâu rộng đất nước. Chính ông đã xóa bỏ hệ thống kiểm duyệt và đưa ra chế độ bầu cử giống như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, biến những quyền công dân vốn chỉ có trên giấy tờ thành hiện thực. Không ngoa khi nói rằng Gorbachev đã trao tự do cho người dân Liên Xô, nhưng cái giá phải trả quả thực là quá lớn"[166].
Giáo sư người Trung Quốc Zuo Fenrong, chuyên gia về Nga và Liên Xô thuộc Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (Đảng Cộng sản Trung Quốc) cho rằng dù không có Gorbachev thì Liên Xô vẫn sẽ khó tồn tại nếu không có cải cách hợp lý. Quá trình trì trệ của Liên Xô đã tích tụ từ 20 năm trước đó, và đến khi Gorbachev lên nắm quyền, những cải cách mang tính mày mò không còn hữu ích nữa. Khi lựa chọn con đường cải cách chính trị, Gorbachev đã tiến hành cải cách dựa trên nguyên tắc "trao lại toàn bộ quyền lực cho Xô Viết tối cao (Quốc hội Liên Xô)". Việc bầu cử đại biểu nhân dân đã trở thành khởi đầu cho sự hỗn loạn và thảm họa của Liên Xô. Vấn đề không phải là trao cho người dân quyền lựa chọn, mà là kế hoạch "giao toàn quyền cho Xô viết Tối cao" của Gorbachev là vô cùng phản khoa học. Đến năm 1990, Gorbachev phải chuyển sang chế độ tổng thống - đa đảng - tam quyền phân lập, các nước cộng hòa thành viên cũng bầu ra tổng thống và Xô viết Tối cao cho riêng họ. Kết quả là giới lãnh đạo chính trị và lực lượng ly khai địa phương được kết hợp, tạo ra các thế lực ly khai làm tan rã Liên Xô. Gorbachev giống như một thuyền trưởng lái con thuyền nhỏ trong giông bão, nhưng lại thiếu kỹ năng điều khiển nên đã khiến con thuyền bị lật úp trước khi đến đích. Chính cuộc đấu tranh của Boris Yeltsin (Tổng thống Nga đầu tiên) với Gorbachev đã trở thành một nhân tố quan trọng dẫn đến sự tan rã của Liên Xô. Tất nhiên, Gorbachev, người đang nắm quyền, vẫn phải chịu trách nhiệm về sự tan rã của Liên Xô: Ông ấy không phải là một nhà lãnh đạo sáng suốt, ông ấy không thành lập đội ngũ lãnh đạo cải cách, và cũng ích kỷ khi không bổ nhiệm những quan chức không đúng thành tích của họ.[166].
Có những chính trị gia Nga ngày nay vẫn có thiện cảm với Gorbachev, mặc dù Gorbachev thường chỉ trích họ, bởi dù sao thì ông cũng là lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô, một đất nước mà Nga kế thừa rất nhiều di sản. Vào ngày 2 tháng 3 năm 2011, Thủ tướng Medvedev cũng ký lệnh trao tặng Huân chương Thánh Andrew, huân chương cao quý nhất của nhà nước Liên Bang Nga cho Gorbachev, và phát biểu: "Tôi nghĩ rằng đây là một đánh giá thích hợp về khối lượng công việc mà ông đã thực hiện với tư cách là nguyên thủ quốc gia, trong những thời điểm phức tạp và đặc biệt khó khăn... Đây cũng là một biểu hiện của sự tôn trọng đối với đất nước mà ông từng lãnh đạo, quê hương chung của chúng ta, Liên Xô." [166].
Xem thêm Sửa đổi
- Liên bang Xô viết
- Hiến chương Trái đất
- Raisa Maksimovna Gorbachyova, vợ của Mikhail, chết vì bệnh bạch cầu 1999
- Yuri Gorbachyov, họa sĩ và nhà điêu khắc nổi tiếng Nga-Mỹ, cháu Mikhail Gorbachyov
- Alexandr Nikolaevich Yakovlev, cố vấn và đồng minh thân cận của Gorbachyov
- Eduard Shevardnadze, đồng minh và bộ trưởng thời Gorbachyov
Chú giải Sửa đổi
- ^ Ngày 14 tháng 3 năm 1990, Điều 6 trong Hiến pháp của Liên bang Xô viết bị xóa bỏ. Từ đó một chế độ đa đảng đa nguyên chính trị đã được thiết lập ở Liên Xô và Đảng Cộng sản do vậy không còn là một phần của bộ máy nhà nước nữa.
- ^ Bị miễn nhiệm tạm thời từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 8 năm 1991 trong cuộc đảo chính Tháng Tám.
- ^ De facto cho tới ngày 21 tháng 8 năm 1991; de jure cho tới ngày 4 tháng 12.
- ^ Cương vị này bị bãi bỏ vào ngày 25 tháng 12 năm 1991 và quyền lực được chuyển giao cho Tổng thống Nga Boris Yeltsin. Chức trách tổng thống được kế thừa bởi Hội đồng các nguyên thủ và Bí thư điều hành của Cộng đồng các Quốc gia Độc lập.
- ^ Bản thân giữ chức Chủ tịch Đảng Dân chủ Xã hội Thống nhất Nga cho tới ngày 24 tháng 11 năm 2001, và Chủ tịch Đảng Dân chủ Xã hội Nga cho tới ngày 20 tháng 10 năm 2007
- ^ tiếng Nga: Михаил Сергеевич Горбачёв; phát âm tiếng Nga: [mʲɪxɐˈil sʲɪrˈɡʲejɪvʲɪdʑ ɡərbɐˈtɕɵf]
- ^ Phiên âm tiếng Việt là Goóc-ba-chốp hoặc Goóc-ba-chóp
Tham khảo Sửa đổi
- ^ Medvedev 1986, tr. 22; Doder & Branson 1990, tr. 1; McCauley 1998, tr. 15; Taubman 2017, tr. 7.
- ^ Taubman 2017, tr. 10.
- ^ McCauley 1998, tr. 15; Taubman 2017, tr. 10.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 4; McCauley 1998, tr. 15; Taubman 2017, tr. 7.
- ^ Taubman 2017, tr. 8–9.
- ^ Taubman 2017, tr. 9; Medvedev 1986, tr. 22.
- ^ a b Taubman 2017, tr. 16.
- ^ Taubman 2017, tr. 16, 17.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 1; Taubman 2017, tr. 7.
- ^ McCauley 1998, tr. 15; Taubman 2017, tr. 12–13.
- ^ Taubman 2017, tr. 14.
- ^ McCauley 1998, tr. 16; Taubman 2017, tr. 7.
- ^ McCauley 1998, tr. 15–16; Taubman 2017, tr. 7, 8.
- ^ Taubman 2017, tr. 18–19.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 5–6; McCauley 1998, tr. 17; Taubman 2017, tr. 7, 20–22.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 5; McCauley 1998, tr. 17; Taubman 2017, tr. 8, 26–27.
- ^ Taubman 2017, tr. 27.
- ^ Taubman 2017, tr. 9, 27–28.
- ^ Taubman 2017, tr. 29–30.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 7; McCauley 1998, tr. 18; Taubman 2017, tr. 32.
- ^ Taubman 2017, tr. 32.
- ^ McCauley 1998, tr. 18; Taubman 2017, tr. 34.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 6; McCauley 1998, tr. 18; Taubman 2017, tr. 8, 34.
- ^ Taubman 2017, tr. 42.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 6, 8; McCauley 1998, tr. 18; Taubman 2017, tr. 40–41.
- ^ Medvedev 1986, tr. 35.
- ^ Taubman 2017, tr. 43.
- ^ Taubman 2017, tr. 50.
- ^ Taubman 2017, tr. 44.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 14; Taubman 2017, tr. 48.
- ^ Taubman 2017, tr. 53.
- ^ Taubman 2017, tr. 52.
- ^ McCauley 1998, tr. 21; Taubman 2017, tr. 77.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 31; Taubman 2017, tr. 78.
- ^ Taubman 2017, tr. 95.
- ^ McCauley 1998, tr. 210; Taubman 2017, tr. 81–83.
- ^ Taubman 2017, tr. 81.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 19; McCauley 1998, tr. 23; Taubman 2017, tr. 86.
- ^ McCauley 1998, tr. 23; Taubman 2017, tr. 89.
- ^ Medvedev 1986, tr. 56, 62; Doder & Branson 1990, tr. 19; McCauley 1998, tr. 29; Taubman 2017, tr. 115–116.
- ^ Medvedev 1986, tr. 63; Doder & Branson 1990, tr. 19; McCauley 1998, tr. 29; Taubman 2017, tr. 111–113.
- ^ Taubman 2017, tr. 86.
- ^ Taubman 2017, tr. 90–91.
- ^ Taubman 2017, tr. 90.
- ^ Taubman 2017, tr. 91.
- ^ McCauley 1998, tr. 22; Taubman 2017, tr. 96–98.
- ^ Taubman 2017, tr. 78.
- ^ Taubman 2017, tr. 103, 105.
- ^ Medvedev 1986, tr. 47; Doder & Branson 1990, tr. 31; McCauley 1998, tr. 23; Taubman 2017, tr. 98.
- ^ McCauley 1998, tr. 23; Taubman 2017, tr. 100.
- ^ Taubman 2017, tr. 89.
- ^ McCauley 1998, tr. 23; Taubman 2017, tr. 99.
- ^ Taubman 2017, tr. 100.
- ^ Medvedev 1986, tr. 49; McCauley 1998, tr. 23.
- ^ Taubman 2017, tr. 102.
- ^ Taubman 2017, tr. 149.
- ^ Medvedev 1986, tr. 50; Doder & Branson 1990, tr. 24; McCauley 1998, tr. 24.
- ^ Taubman 2017, tr. 107.
- ^ Medvedev 1986, tr. 61; McCauley 1998, tr. 26.
- ^ Taubman 2017, tr. 116.
- ^ Medvedev 1986, tr. 63; Doder & Branson 1990, tr. 32; McCauley 1998, tr. 28; Taubman 2017, tr. 119.
- ^ Medvedev 1986, tr. 64.
- ^ McCauley 1998, tr. 30.
- ^ Taubman 2017, tr. 123–124.
- ^ Medvedev 1986, tr. 64–65; McCauley 1998, tr. 30; Taubman 2017, tr. 124.
- ^ McCauley 1998, tr. 28–29; Taubman 2017, tr. 125.
- ^ Taubman 2017, tr. 125–126.
- ^ Medvedev 1986, tr. 65; Doder & Branson 1990, tr. 32; McCauley 1998, tr. 29; Taubman 2017, tr. 120.
- ^ Taubman 2017, tr. 121–122.
- ^ Taubman 2017, tr. 121.
- ^ Medvedev 1986, tr. 73; Taubman 2017, tr. 121.
- ^ Medvedev 1986, tr. 65.
- ^ a b Taubman 2017, tr. 127.
- ^ Taubman 2017, tr. 129.
- ^ McCauley 1998, tr. 31–32; Taubman 2017, tr. 130.
- ^ McCauley 1998, tr. 33; Taubman 2017, tr. 131–132.
- ^ Taubman 2017, tr. 123.
- ^ Taubman 2017, tr. 128–129.
- ^ Taubman 2017, tr. 157.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 35–36; Taubman 2017, tr. 138–139.
- ^ McCauley 1998, tr. 35; Taubman 2017, tr. 145–146.
- ^ Medvedev 1986, tr. 108, 113; McCauley 1998, tr. 35.
- ^ Medvedev 1986, tr. 4; Doder & Branson 1990, tr. 62; McCauley 1998, tr. 45; Taubman 2017, tr. 204.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 63–64; McCauley 1998, tr. 45.
- ^ Taubman 2017, tr. 205–206.
- ^ Medvedev 1986, tr. 16; McCauley 1998, tr. 46; Taubman 2017, tr. 211–212.
- ^ Medvedev 1986, tr. 22.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 69.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 65.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 66.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 87; McCauley 1998, tr. 59; Taubman 2017, tr. 213.
- ^ Medvedev 1986, tr. 194–195; Doder & Branson 1990, tr. 101; McCauley 1998, tr. 60; Taubman 2017, tr. 237.
- ^ Taubman 2017, tr. 228.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 76.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 20; Taubman 2017, tr. 224–226.
- ^ McCauley 1998, tr. 54; Taubman 2017, tr. 223.
- ^ McCauley 1998, tr. 52, 55.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 100; Taubman 2017, tr. 219–220.
- ^ Medvedev 1986, tr. 177; Doder & Branson 1990, tr. 95; McCauley 1998, tr. 52; Taubman 2017, tr. 220.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 97; Taubman 2017, tr. 221.
- ^ Medvedev 1986, tr. 177; McCauley 1998, tr. 53; Taubman 2017, tr. 222.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 94.
- ^ McCauley 1998, tr. 54.
- ^ McCauley 1998, tr. 52.
- ^ McCauley 1998, tr. 50.
- ^ McCauley 1998, tr. 55.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 81.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 82.
- ^ McCauley 1998, tr. 51, 55; Taubman 2017, tr. 235.
- ^ McCauley 1998, tr. 50–51.
- ^ Taubman 2017, tr. 236.
- ^ McCauley 1998, tr. 56.
- ^ Taubman 2017, tr. 236–237.
- ^ Bialer, Seweryn; Afferica, Joan (1985). “The Genesis of Gorbachev's World”. Foreign Affairs (bằng tiếng Anh) (America and the World 1985). ISSN 0015-7120. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2023.
- ^ “Gorbachev's "Perestroika" as the beginning of the end of the empire”. UaWarExplained.com (bằng tiếng Anh). 29 tháng 3 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2022.
- ^ McCauley 1998, tr. 56, 57.
- ^ McCauley 1998, tr. 57.
- ^ McCauley 1998, tr. 61–62.
- ^ Taubman 2017, tr. 266.
- ^ a b Taubman 2017, tr. 271.
- ^ a b Taubman 2017, tr. 272.
- ^ Taubman 2017, tr. 272–273.
- ^ Taubman 2017, tr. 278.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 109; Taubman 2017, tr. 278.
- ^ Taubman 2017, tr. 484.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 191–192; Taubman 2017, tr. 307, 309.
- ^ Taubman 2017, tr. 308.
- ^ Taubman 2017, tr. 310.
- ^ Taubman 2017, tr. 311.
- ^ Taubman 2017, tr. 312.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 239; Taubman 2017, tr. 313.
- ^ McCauley 1998, tr. 115; Taubman 2017, tr. 434–435, 449–450.
- ^ McCauley 1998, tr. 116; Taubman 2017, tr. 450.
- ^ a b Taubman 2017, tr. 465.
- ^ Taubman 2017, tr. 505.
- ^ Taubman 2017, tr. 505–506.
- ^ Taubman 2017, tr. 506–507.
- ^ McCauley 1998, tr. 160–161; Taubman 2017, tr. 507.
- ^ McCauley 1998, tr. 165; Taubman 2017, tr. 508–509.
- ^ a b Taubman 2017, tr. 509.
- ^ McC auley 1998, tr. 164–165 ; Taubman 2017, tr. 509.
- ^ McCauley 1998, tr. 165–166; Taubman 2017, tr. 511.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 408; McCauley 1998, tr. 161; Taubman 2017, tr. 510–522.
- ^ McCauley 1998, tr. 170; Taubman 2017, tr. 513.
- ^ McCauley 1998, tr. 169; Taubman 2017, tr. 513–514.
- ^ a b Taubman 2017, tr. 515.
- ^ McCauley 1998, tr. 172.
- ^ McCauley 1998, tr. 174–175; Taubman 2017, tr. 500–501, 515–516.
- ^ Taubman 2017, tr. 543.
- ^ a b Taubman 2017, tr. 552.
- ^ Doder & Branson 1990, tr. 422; Taubman 2017, tr. 550.
- ^ Taubman 2017, tr. 546.
- ^ “Gorbachev to Trademark His Forehead”. NewsMax.Com. 2004. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 8 năm 2006. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2006.
- ^ “Mikhail Gorbachev on Putin's Reforms: "A Step Back from Democracy"” (bằng tiếng Nga). MosNews. 2004. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2006.
- ^ “Reunification Politicians Accept Prize” (HTML) (bằng tiếng Đức). Deutsche Welle. 2005. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2006.
- ^ Lister, Tim (ngày 30 tháng 8 năm 2022). “Mikhail Gorbachev, Soviet president who took down the Iron Curtain, dies”. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2022.
- ^ Алена Ерохина. “Гемодиализ и ухудшение состояния: Подробности смерти Михаила Горбачева”. dni.ru (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2022.
- ^ Phát Tiến; Nghiên Dương (31 tháng 8 năm 2022). “Mikhail Gorbachev, nhà lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô, qua đời”. Báo Thanh Niên. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2022.
- ^ Duy Tiến. “Cựu lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev qua đời ở tuổi 91”. Báo Công an nhân dân điện tử. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2022.
- ^ Isachenkov, Vladimir. “Putin pays tribute to Gorbachev but won't attend his funeral”. ABC News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2022.
- ^ Kagarlitsky, Boris (16 tháng 3 năm 2011). “Gorbachev the Traitor”. The Moscow Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2022.
- ^ Moscow, AFP (10 tháng 4 năm 2014). “Russian MPs say Mikhail Gorbachev should be prosecuted for treason”. the Guardian (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2022.
- ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2012.
- ^ Vì sao Liên Xô sụp đổ I. Đường lối cải tổ sai lầm và sự phản bội của Gorbachev, 01/10/2015, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
- ^ “Critics demand high treason trial for Gorbachev”. Truy cập 10 tháng 3 năm 2015.
- ^ a b c “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2021.
Nguồn Sửa đổi
- Bhattacharya, Jay; Gathmann, Christina; Miller, Grant (2013). “The Gorbachev Anti-Alcohol Campaign and Russia's Mortality Crisis”. American Economic Journal: Applied Economics. 5 (2): 232–260. doi:10.1257/app.5.2.232. JSTOR 43189436. PMC 3818525. PMID 24224067.
- Bunce, Valerie (1992). “On Gorbachev”. The Soviet and Post-Soviet Review. 19 (1): 199–206. doi:10.1163/187633292X00108.
- Doder, Dusko; Branson, Louise (1990). Gorbachev: Heretic in the Kremlin. London: Futura. ISBN 978-0-70884940-8.
- Galeotti, Mark (1997). Gorbachev and his Revolution. London: Palgrave. ISBN 978-0-33363855-2.
- Gooding, John (1990). “Gorbachev and Democracy”. Soviet Studies. 42 (2): 195–231. doi:10.1080/09668139008411864. JSTOR 152078.
- McCauley, Martin (1998). Gorbachev. Profiles in Power. London and New York: Longman. ISBN 978-0-58221597-9.
- Medvedev, Zhores (1986). Gorbachev. Oxford: Basil Blackwell. ISBN 978-0-39302308-4.
- Steele, Jonathan (1996). “Why Gorbachev Failed”. New Left Review. 216: 141–152.
- Tarschys, Daniel (1993). “The Success of a Failure: Gorbachev's Alcohol Policy, 1985–88”. Europe-Asia Studies. 45 (1): 7–25. doi:10.1080/09668139308412074. JSTOR 153247.
- Taubman, William (2017). Gorbachev: His Life and Times. New York City: Simon and Schuster. ISBN 978-1-47114796-8.
- Tuminez, Astrid S. (2003). “Nationalism, Ethnic Pressures, and the Breakup of the Soviet Union”. Journal of Cold War Studies. 5 (4): 81–136. doi:10.1162/152039703322483765. JSTOR 26925339. S2CID 57565508.
Đọc thêm Sửa đổi
- Brown, Archie. The human factor: Gorbachev, Reagan, and Thatcher, and the end of the Cold War (Oxford University Press, 2020).
- Duncan, W. Raymond, and Carolyn McGiffert Ekedahl. Moscow and the third world under Gorbachev (Routledge, 2019).
- Eklof, Ben. Soviet briefing: Gorbachev and the reform period (Routledge, 2019).
- Kotkin, Stephen. Armageddon Averted: The Soviet Collapse, 1970–2000 (2nd ed. 2008) excerpt Lưu trữ 2021-10-31 tại Wayback Machine
- Kramer, Mark. "Mikhail Gorbachev and the Origins of Perestroika: A Retrospective." Demokratizatsiya: The Journal of Post-Soviet Democratization 29.3 (2021): 255–258.
- Lane, David. "The Gorbachev revolution: The role of the political elite in regime disintegration." Political studies 44.1 (1996): 4-23.
- McHugh, James T. "Last of the enlightened despots: A comparison of President Mikhail Gorbachev and Emperor Joseph II." Social Science Journal 32.1 (1995): 69–85 online abstract Lưu trữ 2021-04-15 tại Wayback Machine.
- Woodby, Sylvia Babus. Gorbachev and the decline of ideology in Soviet foreign policy (Routledge, 2019).
- Ostrovsky, Alexander (2010). Кто поставил Горбачёва? (Who put Gorbachev?) Lưu trữ 2022-08-07 tại Wayback Machine – М.: Алгоритм-Эксмо, 2010. – 544 с. ISBN 978-5-699-40627-2.
- Ostrovsky, Alexander (2011). Глупость или измена? Расследование гибели СССР. (Stupidity or treason? Investigation of the death of the USSR) Lưu trữ 2022-08-30 tại Wayback Machine М.: Форум, Крымский мост-9Д, 2011. – 864 с. ISBN 978-5-89747-068-6.
Liên kết ngoài Sửa đổi
Tập tin phương tiện từ Commons | |
Tin tức từ Wikinews | |
Danh ngôn từ Wikiquote | |
Văn kiện từ Wikisource | |
Dữ liệu từ Wikidata |