Lưu quý phi (Tống Huy Tông)

(Đổi hướng từ Minh Đạt hoàng hậu)

Minh Đạt Hoàng hậu (chữ Hán: 明達皇后; 1086 - 1113), hay Tống Huy Tông Lưu Quý phi (宋徽宗劉貴妃)[1], là một phi tần rất được sủng ái của Tống Huy Tông Triệu Cát.

Minh Đạt Hoàng hậu
明達皇后
Tống Huy Tông Hoàng hậu
Thông tin chung
Sinh1086
Mất1113
Khai Phong, Đại Tống
Phối ngẫuTống Huy Tông
Triệu Cát
Hậu duệ
Thụy hiệu
Minh Đạt Hoàng hậu
(明達皇后)
Tước hiệu[Thọ An Quận quân;
壽安郡君]
[Tài nhân; 才人]
[Mỹ nhân; 美人]
[Tiệp dư; 婕妤]
[Uyển dung; 婉容]
[Uyển nghi; 婉儀]
[Đức phi; 德妃]
[Thục phi; 淑妃]
[Quý phi; 貴妃]
[Hoàng hậu; 皇后]
(truy phong)
Thân phụLưu Ngạn Thanh

Dưới thời nhà Tống, bà là một trong 5 vị phi tần bên cạnh Chương Huệ Hoàng hậu của Tống Chân Tông, Trương Hoàng hậuÔn Thành Hoàng hậu của Tống Nhân Tông, Minh Tiết Hoàng hậu của Tống Huy Tông được truy phong Hoàng hậu, dù tất cả đều chưa từng làm chính thất hay Hoàng hậu khi còn sống, cũng không sinh ra Hoàng đế kế vị. Ngoài ra, bà cùng Ôn Thành Hoàng hậu, Minh Tiết Hoàng hậu là ba phi tần duy nhất được hạ táng bằng lễ của Hoàng hậu dù đương kim Hoàng hậu vẫn còn sống và đang tại vị.

Tiểu sử sửa

Lưu Quý phi có lai lịch rất bí ẩn, chỉ biết cha bà tên Lưu Ngạn Thanh (劉彦清), không rõ quê quán ở đâu.

Năm Nguyên Phù thứ 3 (1100), do có nhan sắc mà bà được tuyển chọn vào cung hầu hạ, làm vị Ngự thị (御侍), sau được Tống Huy Tông sủng hạnh. Năm Sùng Ninh nguyên niên (1102), tháng 12, tiến Thọ An Quận quân (壽安郡君). Năm thứ 2 (1103), tháng 3, tiến Tài nhân. Năm thứ 3 (1104), tháng 7, lại thăng làm Mỹ nhân. Năm thứ 4 (1105), tháng 4, thụ tiến phong Tiệp dư. Năm Đại Quan nguyên niên (1107), tháng 2, thụ tấn Uyển dung (婉容), sang tháng 9 lại thăng Uyển nghi (婉儀), là hàng Tòng nhất phẩm. Năm thứ 2 (1108), tháng giêng, thụ Đức phi (德妃), tháng 2 liền cải làm Thục phi (淑妃).

Năm Đại Quang thứ 3 (1109), tháng 4, Lưu Thục phi chính thức được thụ tấn Quý phi (貴妃), khi ấy địa vị chỉ dưới Trịnh Hoàng hậu[2]. Bà hạ sinh 3 Hoàng tử và 3 Hoàng nữ.

Năm Chính Hòa thứ 3 (1113), mùa thu, ngày 22 tháng 7 (âm lịch), Lưu Quý phi tạ thế, khi 27 tuổi.

Trước đó, Lưu Quý phi từng trồng một cây chuối trong vườn viện, nói:"Thật tiếc, ta có thể không kịp trông thấy thứ này lớn lên", quả nhiên thành thật. Khi bệnh bà trở nặng, người hầu cấp tốc đến báo cho Huy Tông biết, nhưng khi ấy Huy Tông đang bận vui chuyện khác nên không vội vàng. Đến khi Lưu phi đột nhiên hoăng, Huy Tông ân hận nên vô cùng đau xót, bi thương. Được nội đình kiến nghị, Huy Tông đặc biệt ban cho 4 chữ thụy hiệuMinh Đạt Ý Văn (明達懿文).

Sang tháng 9, lấy Ôn Thành Hoàng hậu của Tống Nhân Tông làm tiền lệ, Huy Tông truy tặng Lưu Quý phi tước vị Hoàng hậu, thụy hiệu lấy hai chữ ["Minh Đạt"] đã cho, nên gọi là Minh Đạt Hoàng hậu (明達皇后)[3]. Tuy khi này Trịnh hoàng hậu vẫn còn sống và đang tại vị, Hoàng hậu cũng không phản đối, còn đề nghị Huy Tông làm lễ gia ân thêm do Lưu thị có công sinh dục hoàng tử[4].

Hậu duệ sửa

Lưu Quý phi sinh hạ cho Tống Huy Tông 3 Hoàng tử và 3 Hoàng nữ bao gồm:

  1. Triệu Vực [趙棫; 1107 - 1137], con trai thứ 8 của Tống Huy Tông.
    Sinh năm Đại Quan nguyên niên, tháng giêng. Sang tháng 5, ban ngự danh, tiến phong Hoành Hải Quân Tiết độ sứ, kiêm Kiểm giáo Thái úy (檢校太尉), tước Dương Quốc công (楊國公). Năm Đại Quan thứ 2 (1108), cải phong Tiết độ sứ của Hoài Nam Quân, gia thêm Khai phủ nghi đồng tam ty (開府儀同三司), cải tước Tế Dương quận vương (濟陽郡王). Khi mất, thụy hiệu ["Ích vương"; 益王].
  2. Mậu Đức Đế cơ [茂德帝姬; 1106 - 1128], húy Phúc Kim (福金), con gái thứ 4 của Tống Huy Tông.
    Sơ phong Diên Khánh công chúa (延慶公主), người được xem là đẹp nhất trong các con gái của Tống Huy Tông. Khi Huy Tông cải chế độ Công chúa thành Đế cơ, công chúa trở thành [Mậu Đức Đế cơ]. Năm Trọng Hòa nguyên niên (1118), tháng 11, khi 13 tuổi, công chúa hạ giá lấy con trai thứ 5 của Sái Kinh là Tuyên Hòa điện Đãi chế Sái Diêu (蔡鞗), sinh một con trai tên Sái Du (蔡愉). Sự biến Tĩnh Khang, Sái Kinh bị xem là quốc tặc nên chém đầu, cả nhà bị giết, riêng Sái Diêu do là Phò mã nên được giữ lại. Khi quân Kim tràn vào, công chúa bị Hoàng nhị tử nước Kim là Hoàn Nhan Tông Vọng chuốc say rồi cưỡng bức. Sau khi Hoàn Nhan Tông Vọng chết, Đế cơ liền bị một người cháu của Kim Thái Tông tên Hoàn Nhan Hi Doãn (完颜希尹) chiếm đoạt, chết tại trại của Hi Doãn.
  3. An Thục Đế cơ [安淑帝姬; 1105 - 1109], con gái thứ 8 của Tống Huy Tông.
    Sơ phong An Khánh công chúa (安慶公主), năm Đại Quan thứ 2 (1108) cải thành Long Phúc công chúa (隆福公主). Mất sớm, tặng Thục Quốc công chúa (蜀國公主), về sau cải phong Đế cơ vị hiệu.
  4. Triệu Mô [趙模; 1107 - 1138], con trai thứ 11 của Tống Huy Tông.
    Sinh năm Đại Quan nguyên niên, tháng 12. Sang năm sau (1108), ban ngự danh, tiến phong Vũ Thắng Quân Tiết độ sứ, Kiểm giáo Thái úy, thụ tước Trấn Quốc công (鎮國公). Năm Chính Hòa thứ 3 (1113), cải Tiết độ sứ của Hoài Nam Quân, gia thêm Khai phủ nghi đồng tam ty, tước Nhạc An quận vương (樂安郡王). Năm thứ 3 (1121), tiến phong Kỳ vương (祁王). Mất vào năm Thiệu Hưng thứ 8, ngày 13 tháng 8 (âm lịch) ở Ngũ Quốc Thành.
  5. Tuân Đức Đế cơ [洵德帝姬], húy Phú Kim (富金), con gái thứ 14 của Tống Huy Tông.
    Sinh năm Đại Quan thứ 9 (1109), sơ phong Diễn Phúc công chúa (衍福公主), khi nhận tôn hiệu Đế cơ thì cải thành [Tuân Đức Đế cơ]. Năm Tuyên Hòa thứ 6 (1124), tháng 11, hạ giá lấy Điền Phi (田丕). Sự biến Tĩnh Khang, Đế cơ bị chú ý bởi Trân Châu đại vương Hoàn Nhan Thiết Dã Mã (完颜设也马), con trai của Tướng quốc nước Kim là Hoàn Nhan Tông Hàn. Trong khi Tống Huy Tông kịch liệt phản đối, Hoàn Nhan Thiết Dã Mã vẫn kịch liệt muốn cưới Đế cơ, cuối cùng xin Kim Thái Tông chủ ý ban làm thiếp thất.
  6. Triệu Trăn [趙榛; 1111 - 1139], con trai thứ 18 của Tống Huy Tông.
    Sinh năm Chính Hòa nguyên niên, tháng 8. Sang tháng 11 ban ngự danh, tiến phong Kiến Hùng Quân Tiết độ sứ, Kiểm giáo Thái úy, thụ tước Phúc Quốc công (福國公). Năm Tuyên Hòa thứ 7 (1125), cải phong An Viễn Quân Tiết độ sứ, gia thêm Khai phủ nghi đồng tam ty, cải tước Bình Dương quận vương (平陽郡王). Năm Tĩnh Khang nguyên niên (1126), tiến phong Tín vương (信王). Ông cùng với Tống Cao Tông là 2 hậu duệ nam giới cuối cùng thuộc dòng Tống Thái Tông còn sống sót và thoát được sự truy bắt của người Kim sau sự biến Tĩnh Khang. Mất năm Thiên Xuân thứ 2 (niên hiệu của Kim Hi Tông), ngày 19 tháng 6 (âm lịch) ở Ngũ Quốc Thành.

Trong văn hóa đại chúng sửa

Xem thêm sửa

Tham khảo sửa

  1. ^ Thanh sử cảo chỉ chép là [Lưu Quý phi; 劉貴妃]
  2. ^ 《宋會要輯稿·006‧第六冊‧後妃一至四》
  3. ^ 《宋史·卷二百四十三·列傳第二·后妃傳下·劉貴妃》: 劉貴妃,其出單微。入宮,即大幸,由才人七遷至貴妃。生濟陽郡王棫、祁王模、信王榛。政和三年秋,薨。先是,妃手植芭蕉於庭曰:「是物長,吾不及見矣!」已而果然。左右奔千告帝,帝初以其微疾,不經意,趣幸之,已薨矣,始大悲惻。特加緊四字諡曰明達懿文。敘其平生,弦諸樂府。又欲踵溫成故事追崇,使皇后表請,因冊贈為后,而以明達諡焉。
  4. ^ 《宋史·卷二百四十三·列傳第二·后妃傳下·鄭皇后》: 時族子居中在樞府,后奏:「外戚不當預國政,必欲用之,且令充妃職。」帝為罷居中。居中復用,后歸寧還言:「居中與父紳相往還,人皆言其招權市賄,乞禁絕,許御史奏劾。」后性端謹,善順承帝意。劉貴妃薨,帝思之不已,將追冊為后。后即奏妃乃其養子,乞別議褒崇之禮,帝大喜。