Nền kinh tế nền tảng

Nền kinh tế nền tảng (trong tiếng Anh gọi là Platform Economy) được hiểu là một phần của nền kinh tế mà tại đó các hoạt động kinh tế và xã hội được diễn ra trên các nền tảng kỹ thuật số (Digital platform). Khái niệm này để chỉ bất kỳ loại nền tảng kỹ thuật số nào có sử dụng Internet kết nối các mạng lưới máy tính (Network) phân tán của cá nhân để tạo điều kiện cho những tương tác điện tử (Digital Interaction) giữa con người [1]. Những nền tảng này có thể được xem là người mai mối (Matchmaker) trực tuyến hoặc khung công nghệ trong mô hình kinh doanh (Business Model) của doanh nghiệp giúp chia sẻ thông tin và lưu thông dữ liệu giữa khách hàng và người cung ứng hay nhà sản xuất hình tạo cơ hội thành một hệ sinh thái kỹ thuật số (Digital Ecosystem) của doanh nghiệp.

Tiền thân cho các nền tảng kinh tế kỹ thuật số đương đại có thể được tìm thấy trong suốt lịch sử, đặc biệt là trong nửa sau của thế kỷ 20. Tuy nhiên, chỉ đến năm 2000, cụm từ "nền tảng" bắt đầu được sử dụng rộng rãi hơn để mô tả các công cụ mai mối kỹ thuật số và nền tảng đổi mới. Đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các công ty hoạt động với "mô hình kinh doanh nền tảng" mới đã nhanh chóng kiểm soát một phần của hoạt động kinh tế thế giới, bằng cách phá vỡ hoạt động kinh doanh truyền thống.

Các doanh nghiệp tận dụng sức mạnh của các mô hình kinh doanh nền tảng đã tăng trưởng đáng kể về quy mô trong thập kỷ qua. Không còn chỉ xoay quanh một vài lĩnh vực về truyền thông xã hội, du lịch, sách hay âm nhạc, các mô hình kinh doanh nền tảng nay đã xâm nhập vào giao thông, ngân hàng và thậm chí là chăm sóc sức khỏe và năng lượng [2]. Dựa vào tính năng sử dụng của các nền tảng, người ta đã phân nền tảng thành bốn loại điển hình gồm: nền tảng giao dịch, nền tảng đổi mới, nền tảng tích hợp và nền tảng đầu tư. Ngoài ra, có một số cách phân loại nền tảng số khác được đề cập trong bài phân tích mang tên Digital Platforms: A Review and Future Directions[3].

Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nền tảng đã và đang nhận được những phản ứng hỗn hợp từ các nhà bình luận. Nhiều người ủng hộ lập luận rằng các nền tảng có thể cải thiện năng suất, giảm chi phí, giảm hiệu quả trong các thị trường hiện tại, giúp tạo ra các thị trường hoàn toàn mới, cung cấp sự linh hoạt và khả năng tiếp cận cho người lao động và đặc biệt hữu ích cho các nước kém phát triển. Các lập luận chống lại loại hình này cho rằng kinh tế nền tảng có thể làm trầm trọng thêm tình trạng thất nghiệp do sự chuyển đổi của công nghệ (Technological unemployment), rằng nó góp phần thay thế các công việc truyền thống, khiến các vấn đề về bảo hộ lao động ít được quan tâm hơn, và nó có thể làm giảm doanh thu thuế và việc sử dụng quá mức các nền tảng có thể gây tổn hại về mặt tâm lý và ăn mòn cho cộng đồng. Kể từ đầu những năm 2010, nền kinh tế nền tảng đã là chủ đề của nhiều đánh giá của các nhóm học thuật và tổ chức phi chính phủ, bởi các chính phủ quốc gia và các tổ chức xuyên quốc gia như EU. Đánh giá ban đầu nói chung chống lại việc áp dụng các quy định nặng nề cho nền kinh tế nền tảng. Kể từ năm 2016, và đặc biệt là năm 2017, một số khu vực pháp lý bắt đầu có cách tiếp cận can thiệp hơn.

Lịch sử

Lịch sử hình thành

Trước kỉ nguyên Internet

Những hoạt động kinh tế cơ bản đang vận hành trên nền tảng kĩ thuật số đã diễn ra trước đó rất lâu trên thực tế. Ví dụ, người mai mối giúp đàn ông và phụ nữ tìm được đối tác kết hôn phù hợp hoạt động ở Trung Quốc kể từ ít nhất 1100 trước Công nguyên. Trao đổi ngũ cốc từ Hy Lạp cổ đại đã được so sánh với các nền tảng giao dịch đương đại, cũng như các hội chợ thời trung cổ.Ví dụ về các nền tảng đổi mới cũng có trước thời đại internet. Chẳng hạn như các khu vực địa lý nổi tiếng với các loại hình sản xuất cụ thể, các tổ chức như Trường kinh doanh Harvard hoặc nền tảng công nghệ Wintel đã trở nên nổi bật trong những năm 1980.

Sau kỉ nguyên Internet

Khả năng mở rộng của các giao dịch trên nền tảng kĩ thuật số được mở rộng nhờ sự phát triển trong giao tiếp và phương thức kết nối của Internet. Các nền tảng thị trường trực tuyến như Craigslist và eBay đã được ra mắt vào những năm 1990. Các nền tảng cộng tác trực tuyến và truyền thông xã hội hiện đại cũng được ra mắt vào những năm 1990 với các nền tảng thành công như Myspace và Wikipedia xuất hiện vào đầu những năm 2000. Sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007, các loại nền tảng trực tuyến mới đã nổi lên, bao gồm các nền tảng chia sẻ tài sản như Airbnb và các nền tảng thị trường lao động như TaskRabbit.

Các thuật ngữ liên quan

"Nền kinh tế nền tảng" là một trong những thuật ngữ nhằm mục đích nắm bắt các tập hợp con của toàn bộ nền kinh tế hiện đang được trung gian bởi công nghệ kỹ thuật số. Các thuật ngữ được sử dụng với ý nghĩa đa dạng và đôi khi chồng chéo; một số nhà bình luận sử dụng các thuật ngữ như "nền kinh tế chia sẻ" hoặc "nền kinh tế truy cập" theo nghĩa rộng như vậy chúng thực sự có nghĩa tương tự. Các học giả và nhà bình luận khác cố gắng vẽ sự khác biệt và sử dụng các thuật ngữ khác nhau để phân định các phần khác nhau của nền kinh tế kỹ thuật số rộng lớn hơn. Thuật ngữ "nền kinh tế nền tảng" có thể được xem là phạm vi hẹp hơn "nền kinh tế kỹ thuật số", nhưng phạm vi rộng hơn các thuật ngữ như "nền kinh tế theo yêu cầu", "nền kinh tế chia sẻ" hoặc "nền kinh tế". Một số học giả đã lập luận rằng "nền kinh tế nền tảng" là thuật ngữ thích hợp hơn để thảo luận về một số khía cạnh của các hiện tượng kỹ thuật số mới nổi vào đầu thế kỷ 21.

Nền tảng

Khía cạnh kỹ thuật

Một nền tảng là một tổ hợp công nghệ được sử dụng làm cơ sở cho những ứng dụng cụ thể, quy trình, công nghệ khác được phát triển. Trong điện toán cá nhân, một nền tảng là phần cứng cơ bản (máy tính) và phần mềm (hệ thống vận hành) của những phần mềm ứng dụng có thể vậy hành. Môi trường này hình thành nên nền tảng cơ bản dựa trên bất cứ ứng dụng hay phần mềm nào được hỗ trợ và/hay phát triển.

Khía cạnh kinh tế

Nền tảng là một sản phẩm phục vụ, hỗ trợ các sản phẩm, dịch vụ khác. Nền tảng (mảng kinh doanh kỹ thuật số) có nhiều cấp độ khác nhau. Chúng được xếp hạng từ nền tảng mức độ cao cho phép vận hành một mô hình kinh doanh cho đến nền tảng mức độ thấp cung cấp một tập hợp công nghệ chuyển tải sản phẩm hoặc dịch vụ phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. Các nền tảng cho phép mô hình kinh doanh nền tảng có các hệ sinh thái kinh doanh liên kết, đặc biệt thông qua kết nối API. Các nền tảng nội bộ cũng được phát huy hiệu quả thông qua API. Nhưng họ có thể cung cấp các cơ chế khác, chẳng hạn như truy cập dữ liệu trực tiếp, theo yêu cầu của các sản phẩm tiêu thụ chúng.

Nền kinh tế kỹ thuật số

Nền kinh tế kỹ thuật số là một thuật ngữ cho tất cả các quá trình, giao dịch, tương tác và hoạt động kinh tế dựa trên công nghệ kỹ thuật số. Nền kinh tế kỹ thuật số khác với nền kinh tế internet ở chỗ nền kinh tế internet dựa trên kết nối internet, trong khi nền kinh tế kỹ thuật số rộng hơn và dựa trên bất kỳ công cụ kỹ thuật số nào được sử dụng trong thế giới kinh tế ngày nay.

Nền kinh tế chia sẻ

Nền kinh tế chia sẻ (trong tiếng Anh gọi là Sharing Economy) là hoạt động dựa trên tương tác ngang hàng (P2P) để mua, cung cấp hoặc chia sẻ quyền truy cập vào hàng hóa và dịch vụ và thường được tạo điều kiện bởi nền tảng trực tuyến dựa trên cộng đồng. Các mô hình ứng dụng nguyên tắc của nền kinh tế chia sẻ như Uber, Airbnb với các đặc điểm: Sử dụng công nghệ thông tin (hệ thống CNTT), thường có sẵn thông qua các nền tảng dựa trên web, chẳng hạn như ứng dụng di động, trên các thiết bị hỗ trợ Internet, để tạo điều kiện cho các giao dịch ngang hàng. Dựa vào các hệ thống xếp hạng dựa trên người dùng để kiểm soát chất lượng, đảm bảo mức độ tin cậy giữa người tiêu dùng và nhà cung cấp dịch vụ chưa từng gặp trước đây. Cung cấp cho các công nhân cung cấp dịch vụ thông qua các nền tảng kết hợp kỹ thuật số linh hoạt trong việc quyết định giờ làm việc điển hình của họ. Trong phạm vi mà các công cụ và tài sản là cần thiết để cung cấp dịch vụ, các công ty kết hợp kỹ thuật số phụ thuộc vào người sử dụng công cụ của họ.

Nền kinh tế Gig

Trong một nền kinh tế Gig, các loại việc làm tạm thời, linh hoạt sẽ trở nên phổ biến và các công ty có xu hướng thuê các người nhận việc độc lập và người làm việc tự do thay vì nhân viên toàn thời gian. Một nền kinh tế Gig làm suy yếu nền kinh tế truyền thống của những người lao động toàn thời gian, những người hiếm khi thay đổi vị trí và thay vào đó tập trung vào sự nghiệp cả đời.

Phân loại nền tảng

Trong khi các nền tảng có động lực cơ bản chung, những điều này được thể hiện khác nhau khi các công ty tổ chức và áp dụng chúng trên thị trường. Kết quả là, hợp lý khi tách các công ty nền tảng thành bốn loại: nền tảng giao dịch, nền tảng đổi mới, nền tảng tích hợp và nền tảng đầu tư. Chúng tôi xác định từng loại nền tảng như sau:

Nền tảng giao dịch (Transaction Platform)

Nền tảng giao dịch, còn được gọi là thị trường lưỡng diện (Two-sided Markets), thị trường đa chiều (Multi-sided Market) hay công ty kết hợp công nghệ, là một công nghệ, sản phẩm hoặc dịch vụ hoạt động như một ống dẫn (hoặc trung gian) tạo điều kiện cho các hình thức trao đổi hoặc giao dịch khác nhau giữa những người dùng, người mua hoặc nhà cung cấp khác nhau[2]. Ví dụ điển hình cho các nền tảng giao dịch bao gồm Amazon, Airbnb, UberYahoo.

Nền tảng đổi mới (Innovation Platform)

Nền tảng đổi mới là một công nghệ, sản phẩm hoặc dịch vụ làm nền tảng cho các công ty khác (được tổ chức một cách lỏng lẻo thành một hệ sinh thái đổi mới) phát triển các công nghệ, sản phẩm hoặc dịch vụ bổ sung[2]. Nói một cách dễ hiểu hơn, đây là nền tảng đổi mới cung cấp khung công nghệ chung mà người khác có thể xây dựng, chẳng hạn như nhiều nhà phát triển độc lập làm việc trên nền tảng của Microsoft.

Nền tảng tích hợp (Integrated Platform)

Nền tảng tích hợp là công nghệ, sản phẩm hoặc dịch vụ vừa là nền tảng giao dịch vừa là nền tảng đổi mới. Danh mục này bao gồm các công ty như Apple, Google, Alibaba,... có cả hai nền tảng phù hợp và hệ sinh thái nhà phát triển bên thứ ba lớn hỗ trợ tạo nội dung trên nền tảng[2].

Nền tảng đầu tư (Investment Platform)

Nền tảng đầu tư bao gồm các công ty đã phát triển chiến lược danh mục đầu tư nền tảng và hoạt động như một công ty cổ phần, nhà đầu tư nền tảng tích cực hoặc cả hai. Đây có thể là các công ty có thể không tự vận hành một nền tảng chính, nhưng hoạt động như các phương tiện nắm giữ cho các công ty nền tảng khác hoặc đầu tư vào nhiều doanh nghiệp nền tảng. Một ví dụ về loại nền tảng này là PLAT, nền tảng quỹ giao dịch kinh doanh trao đổi (Exchange-traded Fund) đầu tiên trên thế giới, được Wisdom Tree ra mắt vào tháng 5 năm 2019.

Đặc điểm nền kinh tế nền tảng

Nền kinh tế nền tảng bao gồm: các nền tảng kỹ thuật số, thường hoạt động như các thị trường hai mặt phù hợp với các nhóm người dùng và nhà cung cấp khác nhau và cho phép tăng quy mô và tốc độ cho các giao dịch truyền thống như bán, cho thuê, cho vay, giao dịch lao động, và cung cấp dịch vụ[4]. So với các thị trường truyền thống, các nền tảng giảm chi phí giao dịch và do đó cho phép các giao dịch vi mô. Ba đặc điểm mới của nền kinh tế nền tảng[5]:

Hiệu ứng mạng

Hiệu ứng mạng tồn tại khi hai nhóm người dùng (thường là nhà sản xuất và người tiêu dùng) tạo ra giá trị kết nối lẫn nhau, dẫn đến lợi ích chung thúc đẩy quy mô kinh tế theo nhu cầu. Các hiệu ứng mạng của các nền tảng, với nhiều người dùng và giao dịch được kết nối hơn, thúc đẩy việc tạo ra giá trị và quy mô.

Quyền lực của phân phối kỹ thuật số

Đặc điểm này nhắc đến việc các mô hình kinh doanh nền tảng cho phép mở rộng quy mô bằng cách cho phép những người khác tạo ra lợi nhuận trong “chiếc đuôi dài” của đường cong phân phối, tránh việc giảm lợi nhuận liên quan đến các mô hình chuỗi giá trị truyền thống (tuyến tính).

Tăng trưởng và cạnh tranh không cân bằng

Xuất phát từ việc thúc đẩy nhu cầu của thị trường cốt lõi thông qua các thị trường bổ sung nơi thường được hỗ trợ (hoặc miễn phí) cho người dùng và các ngành công nghiệp. Cạnh tranh không cân bằng tồn tại khi hai công ty đi sau các cơ hội thị trường với các cách tiếp cận và nguồn lực rất khác nhau.

Mô hình kinh doanh nền tảng

Mô hình kinh doanh nền tảng liên quan đến việc tạo ra giá trị từ một nền tảng cho phép hai hay những nhóm người dùng tương tác với nhau. Việc trao đổi được kích hoạt bởi một loạt các công nghệ, từ điện toán đám mây đến phân tích dữ liệu và ở hầu hết các công ty có mô hình kinh doanh nền tảng như vậy, người dùng có thể cung cấp và nhận sản phẩm hoặc dịch vụ.

Có 5 mô hình kinh doanh nền tảng chính. Đây là những mô hình tạo doanh thu và kiếm tiền phổ biến nhất của các nền tảng kỹ thuật số: Mô hình chuyển tiếp hay hướng dẫn khách (Transitional or Concierge model), Mô hình nền tảng 2 mặt (2-Sided Platform Model), Mô hình nền tảng đa chiều (Multi-Sided Platform Model) và Mô hình nền tảng nâng cao (Advanced Platform Model).

Mô hình chuyển tiếp hay hướng dẫn khách (Transitional or Concierge model)

Việc tạo ra giá trị được phân cấp, hoạt động hai chiều nhưng không liên tục. Loại hình kinh doanh nền tảng này thường sử dụng phương thức mai mối trực tuyến thủ công và có hiệu ứng mạng (Network Effect) tối thiểu. Một ví dụ cho mô hình này là Timma, một nền tảng giúp người tiêu dùng so sánh và lựa chọn giữa các tiệm làm tóc và Jamifind, một nền tảng giúp bạn tìm thành viên cho ban nhạc của mình, trao đổi nhạc cụ và tạo nhạc.

Mô hình nền tảng 2 mặt (2-Sided Platform Model)

Một mô hình kinh doanh nền tảng được phát triển toàn diện cho phép doanh nghiệp tạo ra giá trị phân cấp, hai chiều và mang tính liên tục. Hiệu ứng mạng bắt đầu xuất hiện và những chủ thể trong mô hình này có thể truy cập chung vào những tài nguyên chưa sử dụng. Uber, Airbnb và Upwork là những doanh nghiệp điển hình cho mô hình kinh doanh này.

Mô hình nền tảng đa chiều (Multi-Sided Platform Model)

Trong mô hình này, doanh nghiệp trở thành người điều phối, bởi vì họ liên quan đến nhiều thực thể riêng biệt cùng một lúc. Doanh nghiệp lúc này tạo ra giá trị phân cấp, đa chiều và có sự liền mạch. Cũng giống với mô hình nền tảng hai mặt, mô hình có sự tham gia của hiệu ứng mạng và các thực thể có thể truy cập chung những tài nguyên chưa sử dụng. Ví dụ tốt nhất của mô hình này là Deliveroo hoặc Foodora. Họ tính phí những người đặt hàng thực phẩm và sau đó phát hành tiền cho cả người lái và nhà hàng, lấy tiền hoa hồng từ giao dịch. Các ví dụ khác bao gồm: Apple IOSAmazon.

Mô hình nền tảng nâng cao (Advanced Platform Model)

Đây là mô hình nền tảng tiên tiến nhất: Mô hình dựa trên sự đăng ký thành viên. Mô hình này hoạt động tốt nhất khi số lượng thực thể trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gia tăng. Netflix là một ví dụ điển hình cho loại hình này: trên Netflix, bạn có thể chọn các gói đăng ký khác nhau tùy thuộc vào kích thước và tần suất của nội dung kỹ thuật số bạn muốn tiêu thụ.

Ưu điểm và nhược điểm

Kể từ khi xuất hiện nền kinh tế chia sẻ vào giữa năm 2000, cách thức kinh doanh truyền thống đã bị ảnh hưởng. Đối với một số người, hệ thống kinh tế xã hội này đã thay đổi cách mọi người tương tác, kinh doanh và tận dụng các nguồn lực của họ. Mặt khác, các nhà phê bình nói rằng các doanh nghiệp truyền thống cũng chịu nhiều tổn thương từ nền kinh tế này[6]. Nhìn chung, nền kinh tế nền tảng có một số ưu điểm không thể phủ nhận, đồng thời sở hữu những nhược điểm cần giải quyết, xét trên các yếu tố: Cạnh tranh, Cải tiến, Thu nhập, Luật lệ, Môi trường, Xã hội[7].

Ưu điểm

Cạnh tranh

Nền kinh tế nền tảng làm cho nền kinh tế minh bạch hơn. Nền tảng cung cấp cho các nhóm lớn người dùng thông tin về hàng hóa, dịch vụ và giá cả, cái nhìn sâu sắc về sự khác biệt về chất lượng trong việc cung cấp bằng cách hiển thị đánh giá của người dùng. Thông qua các nền tảng, các nhà cung cấp có thể xây dựng danh tiếng và cơ sở khách hàng nhanh chóng và chi phí thấp (khởi nghiệp).

Nền tảng mở rộng thị trường, cung cấp nhiều sự lựa chọn hơn và giá thấp hơn và mang các nhà cung cấp và người dùng lại với nhau và tăng sự lựa chọn trong các sản phẩm và dịch vụ. Các nền tảng tăng cường cạnh tranh khi gia nhập thị trường, dẫn đến giá tốt hơn (thường thấp hơn), loại bỏ các liên kết từ chuỗi giá trị (như nguyên liệu thô đến sản phẩm cuối cùng), giúp giảm chi phí.

Cải tiến

Nền tảng đổi mới, kỹ thuật và với các mô hình kinh doanh, dẫn đến chất lượng tăng hoặc chi phí thấp hơn, đồng thời, thu thập thông tin về các nhà cung cấp và người dùng và sử dụng điều này để phát triển các dịch vụ mới. Quy trình có thể dễ dàng mở rộng và có thể nhanh chóng áp dụng một ý tưởng mới ở một số quốc gia. Tốc độ phát triển công nghệ nhanh chóng buộc các nhà cung cấp phải thích nghi với môi trường cạnh tranh hơn, các nền tảng buộc đưa ra lựa chọn hoặc sáng tạo, liên tục cải tiến hoặc biến mất khỏi thị trường. Bên cạnh đó, hiệu quả từ áp lực đổi mới này cũng thúc đẩy việc cải tiến của các nhóm công ty, thương hiệu và người lao động.

Thu nhập

Nền kinh tế nền tảng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khuyến khích người làm việc tăng năng suất và từ đó đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.

Nền kinh tế này còn tạo ra những cơ hội mới trong lĩnh vực kinh tế, công việc và doanh thu, cung cấp cho mọi người cơ hội để hoạt động kinh tế cùng với thị trường lao động thường xuyên.

Luật lệ và Môi trường

Về khía cạnh luật pháp, nền kinh tế này buộc hiện đại hóa pháp luật, các nhà hoạch định chính sách phải suy nghĩ lại về tính hữu dụng và cần thiết của một số bộ luật và các quy định. Ngoài ra, nền tảng có thể giúp cho quá trình thực thi bởi vì chúng có dữ liệu liên quan, thúc đẩy tính minh bạch, buộc các cơ quan giám sát phải hành động nhanh hơn và hiệu quả hơn.

Về khía cạnh môi trường, nền kinh tế này, mặt nào đó, tốt cho môi trường khi mở ra thị trường cho các mặt hàng đã qua sử dụng, giúp chống lại sự lãng phí; khuyến khích sử dụng nhiều hơn các hàng hóa (vốn) hiện có, dẫn đến ít chất thải; tránh các bước vận chuyển (cần ít lưu trữ trong các cửa hàng bán lẻ), tạo ra hiệu quả cao hơn.

Xã hội

Nền kinh tế nền tảng đơn giản hóa việc chia sẻ tài sản, và do đó tăng cường sự gắn kết xã hội. Nền tảng giúp tổ chức công việc tình nguyện dễ dàng hơn, cung cấp cho mọi người những cách mới để liên lạc với nhau, về kinh tế và xã hội.

Nhược điểm

Cạnh tranh

Các nền tảng có thể giữ dữ liệu có giá trị cho riêng họ và cung cấp cho người dùng thông tin không chính xác hoặc phân phối thông tin không đồng đều. Một vấn đề cần lưu ý khác về việc thao túng thông tin: giúp người dùng có thể thao tác thông tin (ví dụ như đánh giá giả mạo), thao túng thông tin về giá.

Ngoài ra, kinh tế nền tảng còn hạn chế cạnh tranh với thị trường nói chung, các doanh nghiệp địa phương và nhà cung cấp nói riêng. Các doanh nghiệp nền tảng chiến thắng sẽ thiết lập thế độc quyền và điều này làm tăng nguy cơ lạm dụng quyền lực thị trường, tạo thành rào cản gia nhập cho những đơn vị mới. Các nền tảng thường hoạt động quốc tế và có thể tránh thuế dễ dàng hơn so với các doanh nghiệp địa phương hay đặt ra các yêu cầu cụ thể để truy cập và loại trừ các nhà cung cấp khi không đáp ứng được từ đó tạo ra các rào cản chuyển đổi.

Cải tiến

Nền tảng làm nản lòng nhà đổi mới do chi phí lợi nhuận biên thấp.

Thu nhập

Lợi nhuận tạo ra từ nền kinh tế nền tảng phần lớn được chuyển giao cho các cổ đông (nước ngoài), đăc biệt là các nền tảng đang dẫn đầu thị trường. Một số tiện ích từ công nghệ có thể gây ra cắt giảm việc làm vĩnh viễn và tăng bất bình đẳng.

Một hệ quả về hành vi tiêu dùng của kinh tế nền tảng, các nhà cung cấp được đánh giá "sao" thường được hưởng lợi nhiều đặc biệt, điều này dẫn đến bất bình đẳng thu nhập lớn hơn. Ngoài ra, sự bất bình đẳng còn xảy ra giữa những người có vốn hàng hóa(họ sẽ có nhiều cơ hội kiếm tiền hơn).

Nền tảng dẫn đến nhiều tiền đen hơn trong nền kinh tế. Việc sử dụng các nền tảng dẫn đến các nhà cung cấp và người tiêu dùng trả ít hơn hoặc không có thuế.

Luật lệ và Môi trường

Về khía cạnh Luật pháp, nền tảng và người dùng đôi khi hành động mâu thuẫn với luật pháp và luật pháp quốc gia. Cụ thể là: Các nền tảng, thường hoạt động trên phạm vi quốc tế, gặp khó khăn trong việc tuân thủ các quy tắc quốc gia khác nhau; Sự phân chia trách nhiệm người dùng và nhà cung cấp cũng chịu trách nhiệm tuân thủ.

Các nền tảng áp đặt các điều khoản và điều kiện chung áp dụng quyền riêng tư và quyền sở hữu. Nền tảng buộc người dùng từ bỏ dữ liệu cá nhân, đôi khi không làm cho họ biết điều này.

Về khía cạnh Môi trường, đôi khi, kinh tế nền tảng có hại cho môi trường khi tạo ra nhiều dịch vụ tận nhà dẫn đến tác động môi trường cao hơn cho quá trình đóng gói và bảo quản. Kinh tế nền tảng giảm giá và kích thích tăng trưởng, dẫn đến tiêu dùng bổ sung nhiều hơn.

Xã hội

Nền kinh tế này không thể hoặc khó cung cấp lợi ích cho những người không thể đọc hoặc sử dụng máy tính. Một vấn đề bất cập khác là về việc gây phiền toái cho người khác. Ví dụ như khi các cá nhân rao thuê căn hộ của họ, việc chia sẻ thông tin trên một nơi công cộng trực tuyến có thể gây một số ảnh hưởng không nên có. Ngoài ra, các nền tảng với quảng cáo như một mô hình kinh doanh làm suy yếu sức mạnh kinh tế của truyền thông.

Các vấn đề và quy định liên quan đến nền kinh tế nền tảng

Các vấn đề cần lưu ý của nền kinh tế nền tảng

Tốc độ phát triển nhanh chóng của kinh tế nền tảng khiến cho luật pháp không thể theo kịp. Một bộ phận nghiên cứu đang phát triển được để phân tích nhiều vấn đề chưa được giải quyết phát sinh từ nền kinh tế nền tảng, bao gồm các mục sau[4]:

Thuế

Việc thực thi luật thuế trong nền kinh tế nền tảng (cả cho người làm việc trên nền tảng và các nền tảng) khác với các tổ chức truyền thống xác định được. Có nhi lo ngại rằng nền kinh tế chia sẻ có thể liên quan đến việc giảm doanh thu thuế của chính phủ (Baker, 2014). Điều này là do các nền tảng có thể chọn một chế độ điều tiết thuận lợi nhất và bởi vì "công việc vi mô" làm tăng các vấn đề tuân thủ tương ứng (Codagnone et al., 2016).

Đồng thời, việc số hóa một số loại công việc nhất định có thể mang lại cơ hội tuân thủ thuế lớn hơn bằng cách tạo ra các giao dịch có thể theo dõi. Kearney và cộng sự. (2013) cho rằng tuân thủ thuế cao hơn ở các quốc gia có mức thâm nhập thanh toán điện tử cao hơn. Do đó, các nền tảng tạo điều kiện cho các giao dịch kỹ thuật số giữa nhà cung cấp dịch vụ và người dùng có thể tăng doanh thu thuế, đặc biệt liên quan đến các công việc thường xuyên không được khai báo như dọn dẹp, trông trẻ, ngồi cho thú cưng, chăm sóc người già và dạy kèm (Ibid.).

Ngoại tác tiêu cực, nợ phải trả và bảo hiểm

Yếu tố tiêu cực của nền kinh tế chia sẻ bắt đầu nhận được sự chú ý của công chúng vào năm 2013, sau một tai nạn giao thông của một bé gái sáu tuổi do một tài xế Uber gây ra (Daus và Russo, 2015). Cha mẹ đã kiện tài xế và Uber, nhưng tài xế không được bảo hiểm và luật sư của Uber tuyên bố không có trách nhiệm pháp lý vì tài xế là một người nhận việc độc lập.

Các vấn đề khác đã được thảo luận, chẳng hạn như các nền tảng chia sẻ thực phẩm bỏ qua các quy định mà nhà hàng thương mại phải tuân thủ hoặc việc một phòng Airbnb nhỏ hơn tiêu chuẩn phòng khách sạn theo pháp lệnh xây dựng mã y tế (Ranchordas, 2015).

Vấn đề lớn hơn là sự thiếu rõ ràng đối với câu hỏi liệu một nền tảng có chịu trách nhiệm khi một chiếc xe thuê bị hỏng hay không, một căn hộ của chủ nhà bị hư hỏng hoặc bất kỳ ngoại lệ tiêu cực nào khác xảy ra (McLean, 2015). Các nền tảng cho rằng họ không thể chịu trách nhiệm vì họ không phải là nhà cung cấp dịch vụ trực tiếp, mà chỉ là trung gian (Malhotra và Van Alstyne, 2014). Trong khi đó, các chính sách bảo hiểm hiện có cho người thể chất thường không áp dụng khi người kinh doanh, cá nhân tham gia vào các hoạt động thông qua các nền tảng chia sẻ (Wosskow, 2014).

Thông tin không chính xác và cảm tính

Thông tin chính xác là cần thiết để đảm bảo sự lựa chọn sáng suốt và phúc lợi của người tiêu dùng (Codagnone et al., 2016). Các nền tảng thường sử dụng một số loại hệ thống xếp hạng để đảm bảo thành công của chính họ trên thị trường (Dervojeda và cộng sự, 2013) và để cung cấp thông tin về các nhà cung cấp dịch vụ (Rauch và Schle Rich, 2015). Tuy nhiên, hệ thống xếp hạng có thể bị lạm dụng hoặc chịu tỷ lệ phản hồi thấp (Codagnone et al., 2016) và mọi người không muốn cung cấp xếp hạng tiêu cực khi chúng được trả thưởng nào đó (Edelman và Geradin, 2015). Do đó, gần như tất cả các nhà cung cấp dịch vụ Airbnb và Uber đều được xếp hạng ở đầu thang đo. Trên thực tế, ví dụ, các tài xế Uber có thể bị sa thả nếu như có điểm đánh giá 4,6 trên 5 cho 50 hoặc 100 chuyến đi. Đây có thể là một yếu tố ảnh hưởng việc người tiêu dùng đưa ra những quyết định chưa chính xác.

Cấp phép và chứng nhận

Các sự cố trong quá trình vận hành nền tảng đã làm tăng mối lo ngại về thực trạng các nhà cung cấp dịch vụ không bắt buộc phải có chứng nhận (ví dụ: Sablik, 2014; Rauch và Schneider, 2015). Điều này có thể dẫn đến cả những lo ngại về an toàn công cộng và sự không chắc chắn trong việc gây tổn hại cho các mô hình kinh doanh của các nền tảng. Do đó, các nền tảng đã chọn tham gia các nhà cung cấp dịch vụ của họ theo nhiều cách khác nhau. Một trong số đó là kiểm tra nhận dạng có thể được thực hiện theo một số cách (Dervojeda et al., 2013).

Tuy nhiên, không rõ các cuộc kiểm tra này có hiệu quả và minh bạch như thế nào (Ranchordas, 2015), và một số người đã lập luận rằng tự điều chỉnh không thể áp dụng cho các tiêu chuẩn cấp phép của chính phủ thông qua các quy trình lập pháp hoặc lập pháp (Daus và Russo, 2015). Cấp phép hoặc thiếu nó cũng có ý nghĩa rộng hơn.

Dữ liệu và quyền riêng tư

Do tính chất của các nền tảng kỹ thuật số, một số người đã đặt ra mối lo ngại về lượng dữ liệu nhạy cảm được thu thập về người tiêu dùng và việc sử dụng nó (Koopman et al., 2015). Một lượng lớn dữ liệu có thể cung cấp cho một nền tảng lợi thế đáng kể và thực tế, một số nền tảng đã sử dụng dữ liệu như là lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, việc xử lý dữ liệu và quyền riêng tư có thể được giải quyết rõ ràng hơn các vấn đề khác. Mặc dù thừa nhận rằng các nền tảng thu thập thông tin nhạy cảm về người tiêu dùng, có thể bao gồm các địa điểm của họ theo thời gian và thông tin tài chính, Geradin (2015) cho rằng luật pháp hiện hành có thể ngăn người nắm giữ dữ liệu lạm dụng dữ liệu đó. Koopman và cộng sự. (2015) cho rằng luật hợp đồng có thể làm giảm bớt những lo ngại về dữ liệu, có nghĩa là khi các nền tảng không tuân thủ lời hứa với khách hàng, tòa án có thể can thiệp. Ủy ban Châu Âu (2016) dường như cũng xem dữ liệu là một vấn đề ít có vấn đề, viết đơn giản trong Thông báo tháng 6 năm 2016: Các nền tảng hợp tác có thể được miễn trách nhiệm đối với thông tin mà họ lưu trữ thay mặt cho những người cung cấp dịch vụ.

Năng lực cạnh tranh

Ít nhất ba mối quan tâm tiềm năng đã được thảo luận, bao gồm i) hệ quả bất tin cậy khi một nền tảng đạt được sự thống trị; ii) sự ngăn chặn của bên thứ ba tại một phần của giao dịch; và iii) sức mạnh để cạnh tranh các đối thủ, dẫn đến thỏa thuận ngầm hoặc hành vi không công bằng (King, 2015). Uber đặc biệt phải đối mặt với các khiếu nại về chiến thuật tăng giá đột phá của họ do việc định giá như vậy có thể vi phạm luật phân chia giá (Ibid).

Cạnh tranh vẫn đang là một mối quan tâm đáng lưu ý, đặc biệt khi hầu hết tất cả sự tăng trưởng trong nền kinh tế nền tảng đều tập trung vào một vài nền tảng nhất định (Fabo et al. (2007a)). Cạnh tranh cũng liên quan đến cuộc tranh luận cấp phép.

Lao động

Có lẽ vấn đề gây tranh cãi nhất trong nền kinh tế nền tảng liên quan đến lao động. Câu hỏi được đặt ra là liệu những người làm việc là cá nhân nhận, quản lí việc tự do hay nhân viên có ảnh hưởng đến các vấn đề lao động khác bao gồm bồi thường, điều kiện làm việc, quyền công dân.

Các câu hỏi về lao động trong nền kinh tế nền tảng cũng liên quan đến các cuộc thảo luận rộng hơn về tác động của việc thuê ngoài và thuê lao động đa quốc gia đối với điều kiện việc làm và quan hệ công nghiệp, đặc biệt là về các nền tảng chỉ hoạt động với lao động trực tuyến. Bên ủng hộ cho rằng có thể xem người cung cấp dịch vụ trên nền tảng là những người kinh danh siêu nhỏ. Trong khi bên phản đối cho rằng việc làm trong nền kinh tế nền tảng làm mờ đi vai trò của hợp đồng lao động, tăng sự bấp bênh trong việc làm và các nền tảng thì ngày càng kiểm soát được người làm việc của họ với chi phí thấp (Kutter, 2013).

Ngoài ra, vấn đề lao động còn cần thảo luận và suy xét thêm về việc có hay không sự phân loại người nhận, quản lí việc tự do, mối quan hệ làm việc, lương thưởng, điều kiện làm việc. Điển hình như, với vấn đề lương thưởng, cần thảo luận về cách người làm việc trên nền tảng được trả tiền như thế nào so với nhân viên trực tiếp. Hay ví dụ về trường hợp của Uber, các tài xế Uber không có thời gian lái xe tối đa, khiến người ta lo ngại về khối lượng công việc không công bằng và các tài xế kiệt sức gây ra tai nạn (Gale, 2016).

Các quy định

Trong thời kì bắt đầu, các nền tảng kỹ thuật nhận được lợi thế trong việc ít luật lệ ràng buộc. Tuy nhiên, như các vấn đề lo ngại đã trao đổi phía trên (Thuế, Ngoại tác tiêu cực, nợ phải trả và bảo hiểm, Thông tin bất cân xứng và sai lệch nhận thức, Cấp phép và chứng nhận, Dữ liệu và quyền riêng tư, Khả năng cạnh tranh, Lao động), xã hội cho thấy mối quan tâm về các yếu tố như tiêu chuẩn an toàn và vệ sinh, thuế, tuân thủ, tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích và cạnh tranh công bằng[1].

Trường hợp của các nền tảng lớn tập trung ở Trung Quốc hoặc Hoa Kỳ là hai ví dụ điển hình tương ứng với hai bối cảnh luât lệ khác nhau. Ở Hoa Kỳ, các nền tảng phần lớn phát triển tự do theo quy định của nhà nước. Ở Trung Quốc, trong khi các công ty nền tảng lớn như Tencent hay Yahoo thuộc sở hữu tư nhân (về mặt lý thuyết có nhiều tự do hơn so với SOE), họ vẫn bị kiểm soát chặt chẽ và cũng được nhà nước bảo vệ chống lại cạnh tranh nước ngoài, ít nhất là tại thị trường quê nhà[8].

Kể từ năm 2017, sự cân nhắc về một "cách thứ ba", ít "Laissez-faire" hơn cách tiếp cận ở Hoa Kỳ, đồng thời ít hạn chế hơn so với cách tiếp cận ở Trung Quốc, được đưa ra ở châu Âu. Đó là sự kết hợp để tạo một luật lệ chung, tức là các cơ quan quản lý công cộng và các công ty nền tảng tự hợp tác để thiết kế và thực thi quy định[9]. Vào tháng 3 năm 2018, EU đã công bố các hướng dẫn liên quan đến việc loại bỏ phương tiện bất hợp pháp khỏi các nền tảng truyền thông xã hội, cho thấy rằng nếu các công ty nền tảng không cải thiện sự tự điều chỉnh của họ, các quy tắc mới sẽ có hiệu lực ở cấp EU trước khi kết thúc của năm. Các công đoàn lao động đã bắt đầu tham gia ngày càng nhiều vào việc đại diện cho người lao động tham gia vào phần thị trường lao động của nền kinh tế nền tảng. Với các hiệu quả mà công việc từ xa do các nền tảng cung cấp, một nỗ lực khuyến khích các điều kiện làm việc phù hợp trên quy mô toàn cầu đang được thực hiện bởi nền tảng Fair work. Fair work đang tìm cách tiến tới các điều kiện đồng thuận lẫn nhau với sự hợp tác của chủ sở hữu nền tảng, công nhân, đoàn thể và chính phủ[10].

Tham khảo

  1. ^ a b “The rise of the platform economy” (PDF). tháng 12 năm 2018. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2020.
  2. ^ a b c d “The Rise of the Platform Enterprise” (PDF). tháng 1 năm 2016.
  3. ^ “Digital Platforms: A Review and Future Directions”. 27 tháng 8 năm 2018.
  4. ^ a b “The Platform Economy and Industrial Relations: Applying the Old Framework to the New Reality”. tháng 8 năm 2017.
  5. ^ “Platform Economy: Technology-driven business model innovation from the outside in” (PDF). 2016.[liên kết hỏng]
  6. ^ “The ever-growing sharing economy: Pros and cons”.
  7. ^ “Argument Map The Platform Economy” (PDF). 2015.
  8. ^ “Regulation in the Platform Economy: Do We Need a Third Path?”. 29 tháng 3 năm 2017.
  9. ^ “Co-Regulating the Platform Economy”. 7 tháng 9 năm 2017.
  10. ^ “A field guide to the future of work” (PDF). 2019.