Nội chiến Hy Lạp

Nội chiến tại Hi Lạp giữa phe thân Anh, Mỹ và lực lượng Cộng sản Hi Lạp 1946-1949

Cuộc Nội chiến Hy Lạp (tiếng Hy Lạp: ο Eμφύλιος [Πόλεμος]) bắt đầu từ năm 1946 và chấm dứt vào năm 1949. Cuộc chiến xảy ra khi quân Đồng Minh bao gồm Anh Quốc, Hoa Kỳ hỗ trợ quân đội chính phủ quốc gia Hy Lạp chống lại Quân đội Dân chủ Hy Lạp, lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản Hy Lạp, với yểm trợ quân sự từ các nước xã hội chủ nghĩa bao gồm Liên Xô, Bulgaria, Nam TưAlbania.

Nội chiến Hy Lạp
Một phần của Chiến tranh Lạnh

Bản đồ Hy Lạp
Thời gianGiai đoạn 1:
1943–1944
Giai đoạn 2:
3 tháng 12 1944 – 11 tháng 1 1945
(Bản mẫu:Tuổi in years, months, weeks and days)
Giai đoạn 3:
30 tháng 3 1946 – 16 tháng 10 1949
(Bản mẫu:Tuổi in years, months, weeks and days)
Địa điểm
Hy Lạp
Kết quả Quân đội Quốc gia Hy Lạp chiến thắng
Tham chiến
Hy Lạp Quân đội Quốc gia Hy Lạp
Hoa Kỳ Hoa Kỳ
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Anh Quốc

Quân đội Dân chủ Hy Lạp
Cộng hòa Macedonia Mặt trận Giải phóng Macedonia


Liên Xô Liên Xô
Albania Albania
Chỉ huy và lãnh đạo
Hy Lạp A Papagos,
Hy Lạp T Tsakalotos
M Vafiadis,
N Zachariadis
Lực lượng
150.000 51.000
Thương vong và tổn thất

Chính quy, từ 16 tháng 8 năm 1945 đến 22 tháng 12 năm 1951:[1]
15.268 chết
37.255 bị thương
3.843 mất tích
865 bỏ trốn

Cảnh binh, từ 1 tháng 12 năm 1944 đến 27 tháng 12 năm 1951:[2]
1.485 chết
3.143 bị thương
159 mất tích.
38,839 chết
20,128 bị bắt
1.000.000 người ly tán quê hương[3]

Tranh chấp giữa hai phái khuynh hữukhuynh tả bắt đầu từ năm 1943 khi Hy Lạp bị quân Đức-Ý xâm chiếm. Khi quân Đồng Minh đánh đuổi quân Đức-Ý ra khỏi Hy Lạp, cuộc tranh giành thế lực giữa hai phe đưa đến tranh chấp vũ trang. Đây là cuộc chiến tiêu biểu đầu tiên của Chiến tranh Lạnh. Với một số học giả, đây là ví dụ điển hình của chính sách phương Tây can thiệp vào chuyện nội bộ của nước ngoài.[4] Một số khác thì cho đây là bằng chứng đầu tiên của mật ước phân chia ảnh hưởng giữa StalinChurchill.

Trong những năm Hy Lạp bị chiếm đóng, chính phủ lưu vong không kiểm soát được tình hình chính trị trong nước và các thế lực kháng chiến tự động thành lập với nhiều đường hướng chính trị khác nhau - lớn mạnh nhất là phong trào cộng sản Mặt trận Giải phóng Quốc gia Hy Lạp (EAM). Bắt đầu từ mùa thu năm 1943, xung đội giữa EAM và các lực lượng kháng chiến khác ngày càng tăng cao với các vụ chạm súng kéo dài cho đến mùa xuân năm 1944, khi cuộc hòa giải đưa đến việc thành lập chính phủ lâm thời với 6 nghị viên thuộc EAM.

Tháng 12 năm 1944, Hy Lạp được quân Đồng Minh kéo vào giải phóng. EAM lúc này là lực lượng chủ yếu, phản đối quân Anh, đòi giành quyền cai quản thủ đô Athens. Quân Anh đánh bại quân EAM và lực lượng vũ trang của mặt trận này bị giải tán. Nhưng EAM vẫn còn có mặt trong quốc hội và tiếp tục giằng co với phe khuynh hữu.

Năm 1946, Đảng Cộng sản Hy Lạp chỉ huy dưới hỗ trợ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (Albania, Nam Tư, Bulgaria và Liên Xô) thiết lập lực lượng du kích Quân đội Dân chủ Hy Lạp đánh nhau chống lại quân đội Quốc gia Hy Lạp và quân Đồng Minh, trong đó có Anh và Hoa Kỳ. Sau vài chiến thắng đầu tiên, quân đội Dân chủ Hy Lạp yếu dần. Sự kiện chia rẽ giữa StalinTito cũng làm sút giảm sức mạnh của họ. Bên kia, quân Mỹ tiếp tục tăng cường viện trợ cho chính phủ Hy Lạp và đưa đến chiến thắng cuối cùng.

Sau chiến thắng của chính phủ thân phương Tây, Hy Lạp trở thành thành viên của khối liên hiệp phòng vệ NATO. Cuộc nội chiến là tiền đề cho chính sách chống cộng của Hy Lạp, dẫn đến việc ra đời Chính quyền Quân sự Hy Lạp (1967–1974).

Chú thích

sửa
  1. ^ Γενικόν Επιτελείον Στρατού, Διεύθυνσις Ηθικής Αγωγής, Η Μάχη του Έθνους, Ελεύθερη Σκέψις, Athens, 1985, pp. 35-36
  2. ^ Γενικόν Επιτελείον Στρατού, p. 36
  3. ^ Γιώργος Μαργαρίτης, Η ιστορία του Ελληνικού εμφυλίου πολέμου ISBN 960-8087-12-0
  4. ^ Chomsky, Noam (1994)). World Orders, Old And New. Đã bỏ qua tham số không rõ |publishers= (gợi ý |publisher=) (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)