Nam Trực Lệ (phồn thể: 南直隸; giản thể: 南直隶; Wade–Giles: Nan Chih-li) là một khu vực hành chính tại Trung Hoa từ thời nhà Minh, bao gồm 14 phủ và 4 trực lệ châu tại khu vực Giang Nam và Giang Hoài. Ban đầu sau khi Chu Nguyên Chương thành lập nhà Minh, khu vực này mang tên gọi Trực Lệ, tức là khu vực do triều đình trung ương trực tiếp quản lý, còn các tỉnh khác đều thiết lập bộ máy tam ty - Thừa tuyên Bố chính sứ ty, Đề hình Án sát sứ tyĐô Chỉ huy sứ ty. Sau khi Yên Vương Chu Lệ soán ngôi Minh Huệ Đế và cải niên hiệu Vĩnh Lạc vào năm 1402 đã chọn Bắc Bình, vốn là phủ đệ của minh, làm kinh đô mới và tiến hành các hoạt động xây dựng cung điện và cải tổ cơ cấu hành chính, bao gồm phế bỏ Bắc Bình Bố Chính Sứ ty và đưa toàn bộ các sở, châu, phủ, huyện do triều đình trung ương trực tiếp quản lý. Vì cả hai khu vực trên đều do triều đình trực tiếp quản lý nên Vĩnh Lạc Đế đã gọi đổi tên Bắc Bình thành Bắc Trực Lệ, Trực Lệ cũ đổi thành Nam Trực Lệ, cùng với 13 tỉnh hình thành cơ cấu hành chính Lưỡng kinh thập tam tỉnh của nhà Minh. Phạm vi của khu vực Nam Trực Lệ rất rộng, tương ứng với các tỉnh An Huy, Giang Tô và thành phố Thượng Hải ngày nay. Về mặt phiên chế, Nam Trực Lệ không do Tam ty kiểm soát mà do Nam Kinh Lục Bộ trực tiếp điều hành.

Vị tríSửa đổi

Nam Trực Lệ nằm tại khu vực hạ lưu Trường GiangHoài Hà, phạm vi ngày nay thuộc các tỉnh An Huy, Giang Tô và thành phố Thượng Hải. Phía Đông giáp biển Hoa Đông, phía Bắc giáp hai tỉnh Sơn ĐôngHà Nam, phía Tây giáp Hồ Quảng (nay là hai tỉnh Hồ BắcHồ Nam), phía Nam giáp hai tỉnh Giang TâyChiết Giang.

Lịch sử hình thành và phát triểnSửa đổi

Các châu phủ của Nam Trực Lệ dưới thời nhà Nguyên phạm vi của Giang Chiết Đẳng xử Hành trung thư tỉnh[1]Hà Nam Giang Bắc Đẳng xử Hành trung thư tỉnh[2].

Năm 1355, Hàn Lâm Nhi xưng là Tiểu Minh Vương, thành lập nhà Tống, lấy niên hiệu là Long Phượng, định đô ở Biện Lương, tiến hành phân chia các địa phương thành các đơn vị hành chính gọi Hành Trung thư tỉnh, gọi tắt là Hành tỉnh. Năm Long Phượng thứ hai (1356), Giang Nam hành Trung thư tỉnh được thành lập với phạm vi khu vực bao gồm 4 phủ Ứng Thiên, Thái Bình, Giang Hoài, Quảng Hưng và 4 lộ Thường Châu, Dương Châu, Lư Châu và An Khánh; cùng năm này đổi tên phủ Giang Hoài thành Trấn Giang.

Năm Long Phượng thứ 10 (1364), Tiểu Minh Vương được Chu Nguyên Chương, lúc này đang là Bình Chương Giang Nam Hành trung thư tỉnh, đưa về Trừ Châu, trung tâm quyền lực nhà Tống chuyển từ Biện Lương về Giang Nam. Trung thư tỉnh được thiết lập đặt tại Giang Nam hành tỉnh, từ đó khu vực này bắt đầu mang danh xưng Trực Lệ; cũng trong năm này nhà Tống tách Lư Châu khỏi Giang Nam và thành lập Giang Hoài hành tỉnh với thủ phủ đặt tại chính Lư Châu.

Năm Long Phượng thứ 12 (1366), Giang Hoài hành tỉnh được sát nhập vào Trung thư tỉnh.

Năm 1368, Chu Nguyên Chương thành lập nhà Minh, lấy niên hiệu là Hồng Vũ, đóng đô tại Ứng Thiên phủ. Triều đình mới bắt đầu lên kế hoạch thiết lập lưỡng kinh, theo đó Ứng Thiên phủ được chọn làm Nam Kinh, còn Bắc Kinh sẽ được chọn lựa giữa Phượng DươngBiện Lương.

Năm Hồng Vũ thứ 11 (1378), kế hoạch xây dựng Bắc Kinh bị hủy bỏ, triều đình đổi tên Nam Kinh thành kinh sư.

Năm Hồng Vũ thứ 13 (1380), nhân vụ án Hồ Duy Dung mưu phản, triều đình xóa bỏ Trung thư tỉnh, các phủ châu thuộc trung thư tỉnh trước đây chuyển giao cho Lục Bộ quản lý, tuy vậy danh xưng Trực Lệ vẫn được duy trì.

Năm Vĩnh Lạc thứ 19 (1421), triều đình dời đô lên Bắc Bình, kinh sư đổi tên là Nam Kinh, Trực Lệ đổi tên thành Nam Trực Lệ.

Hồng Hy nguyên niên (1425), triều đình dự định chuyển đô về Nam Kinh, đổi tên Nam Kinh thành kinh sư. Tuy nhiên do Minh Nhân Tông mất đột ngột nên kế hoạch dời đô đã bị trì hoãn.

Chính Thống năm thứ 6 (1441), triều đình một lần nữa xác định Bắc Kinh làm kinh sư, từ nay về sau duy trì Nam - Bắc Trực Lệ đến khi nhà Minh sụp đổ.

Các phủ, châu trực thuộcSửa đổi

Ứng Thiên phủSửa đổi

Quản lý các huyện Thượng Nguyên, Giang Ninh, Câu Dung, Lật Dương, Lật Thủy, Cao Thuần, Giang Phổ và Lục Hợp.

Phượng Dương phủSửa đổi

Quản lý các huyện Phượng Dương, Lâm Hoài, Hoài Viễn, Định Viễn, Ngũ Hà và Hồng Huyền; các châu Thọ (quản lý các huyện Hoắc Khâu và Mông Thành), Tứ (quản lý các huyện Hu Di và Thiên Trường), Túc (quản lý huyện Linh Bích), Toánh (quản lý các huyện Toánh Thượng và Thái Hòa) và Bạc.

Tô Châu phủSửa đổi

Quản lý các huyện Ngô, Trường Châu, Ngô Giang, Côn Sơn, Thường Thục, Gia Định; châu Thái Thương (quản lý huyện Sùng Minh).

Tùng Giang phủSửa đổi

Quản lý các huyện Hoa Đình, Thượng Hải và Thanh Phổ.

Thường Châu phủSửa đổi

Quản lý các huyện Vũ Tiến, Vô Tích, Nghi Hưng, Giang Âm và Tĩnh Giang.

Trấn Giang phủSửa đổi

Quản lý các huyện Đan Đồ, Đan Dương và Kim Đàn.

Hoài An phủSửa đổi

Quản lý các huyện Sơn Dương, Thanh Hà, Diêm Thành, An Đông, Đào Nguyên và Thuật Dương; các châu Hải (quản lý huyện Cống Du), Bi (quản lý các huyện Túc Thiên và Tuy Ninh).

Dương Châu phủSửa đổi

Quản lý các huyện Giang Đô, Nghi Chân và Thái Hưng; các châu Cao Bưu (quản lý các huyện Bảo Ứng và Hưng Hóa), Thái, Thông (quản lý huyện Hải Môn).

Lư Châu phủSửa đổi

Quản lý các huyện Hợp Phì, Thư Thành, Lư Giang; các châu Vô Vi (quản lý huyện Lĩnh Sào), Lục An (quản lý các huyện An Sơn Hoắc Sơn).

An Khánh phủSửa đổi

Quản lý các huyện Hoài Ninh, Đồng Thành, Tiềm Sơn, Thái Hồ, Túc Tùng và Vọng Giang.

Thái Bình phủSửa đổi

Quản lý các huyện Đương Đồ, Vu Hồ, Phồn Xương.

Trì Châu phủSửa đổi

Quản lý các huyện Quý Trì, Thanh Dương, Đồng Lăng, Thạch Đại, Kiến Đức và Đông Lưu.

Ninh Quốc phủSửa đổi

Quản lý các huyện Tuyên Thành, Nam Lăng, Kính Huyền, Ninh Quốc, Tinh Đức và Thái Bình.

Huy Châu phủSửa đổi

Quản lý các huyện Hấp, Hưu Ninh, Vụ Nguyên, Kỳ Môn, Y và Tích Khê.

Từ châuSửa đổi

Quản lý các huyện Phong, Phái, Tiêu và Nãng Sơn.

Trừ châuSửa đổi

Quản lý các huyện Toàn Tiêu và Lai An.

Hòa châuSửa đổi

Quản lý huyện Hàm Sơn.

Quảng Đức châuSửa đổi

Quản lý huyện Kiến Bình.

Một số danh nhân lịch sử Nam Trực LệSửa đổi

Nam Trực Lệ là khu vực có tầm quan trọng về kinh tế - chính trị của nhà Minh, do đó số lượng danh nhân được ghi nhận rất nhiều, bao gồm:

Chính trịSửa đổi

Chu Nguyên Chương (1328 - 1398), hoàng đế khai quốc nhà Minh.

Lý Thiện Trường (1314 - 1390), công thần khai quốc nhà Minh.

Từ Giai (1503 - 1583), Nội các thủ phụ thứ 44 của nhà Minh.

Đông Lâm đảng, tổ chức chính trị đảng phái theo tư tưởng bảo thủ cuối thời Minh.

Quân sựSửa đổi

Thang Hòa (1326 - 1395), công thần khai quốc nhà Minh.

Lam Ngọc (? - 1393), công thần khai quốc nhà Minh.

Thường Ngộ Xuân (1330 - 1369), công thần khai quốc nhà Minh.

Hồ Tông Hiến (1512 - 1565), đại thần thời Gia Tĩnh, có vai trò lớn trong cuộc chiến chống Oa Khấu ở miền Nam Trung Hoa.

Văn họcSửa đổi

Ngô Trung Tứ tài tử, bốn tài tử nổi tiếng giữa thời Minh gồm Đường Dần, Chúc Doãn Minh, Văn Trưng MinhTừ Trinh Khanh.

Quy Hữu Quang (1507 - 1571), nhà văn, phê bình văn học giữa thời Minh.

Thi Nại Am (1296 - 1372), tác giả của Thủy Hử.

Ngô Thừa Ân (1506 - 1582), tác giả của Tây Du Ký, một trong Tứ đại danh tác Trung Hoa

Đổng Kỳ Xương (1555 - 1636), nhà thư pháp cuối thời Minh.

Vương Thế Trinh (1526 - 1590), một trong bảy tài tử thời Gia Tĩnh - Long Khánh.

Kim Thánh Thán (1608 - 1661), nhà văn, phê bình văn học cuối Minh đầu Thanh.

Từ Hà Khách (1587 - 1641), nhà văn và địa lý học cuối thời Minh.

Tư tưởng triết họcSửa đổi

Cố Viêm Vũ (1613 - 1682), nhà tư tưởng, sử gia mang tư tưởng cải cách cuối thời Minh.

Hoàng Tông Hy (1610 - 1695), nhà tư tưởng, sử gia mang tư tưởng cải cách cuối thời Minh.

Khoa học - kỹ thuậtSửa đổi

Từ Quang Khải (1562 - 1633), Nội các đại thần cuối thời Minh và là một trong ba trụ cột lớn của Thiên Chúa Giáo tại Trung Hoa.

Kinh tếSửa đổi

Thẩm Vạn Tam (1306 - 1394), thương gia nổi tiếng có những đóng góp thương mại quan trọng cuối Nguyên đầu Minh.

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Nay thuộc địa phận Phúc Kiến, Chiết Giang và phía nam Giang Tô
  2. ^ Nay thuộc Hà Nam, An Huy và phía bắc Giang Tô

Tham khảoSửa đổi

Trương Đình Ngọc, Minh sử.

Xem thêmSửa đổi

Trực Lệ

Bắc Trực Lệ