Ngữ Phong Viên Tín (zh: 語風圓信, ja: Gofū Enshin, 1571-1647), còn có hiệu là Tuyết Kiều Viên Tín, cuối đời lấy hiệu là Ngữ Phong Lão Nhân, là Thiền sư Trung Quốc cuối thời nhà Minh đầu nhà Thanh. Sư thuộc thuộc dòng Hổ Khâu, phái Dương Kỳ phái, Tông Lâm Tế. Sư là đệ tử của Thiền sư Huyễn Hữu Chính Truyền và là tác giả của nhiều tác phẩm Thiền học.

Thiền sư Ngữ Phong Viên Tính

Tiểu sử sửa

họ Chu, sinh ngày mồng 10 tháng 2 năm thứ 5 niên hiệu Long Khánh tại huyện Ngân, Ninh Ba, tỉnh Triết Giang. Năm 29 tuổi, sư xuất gia và thọ giới cụ túc với đại sư Bảo Phong, và tu theo hạnh đầu đà.

Trên con đường tu học Thiền, đầu tiên sư đến yết kiến và tham học với Thiền sư Diệu Trinh ở chùa Phổ Tế, núi Tần Vọng tỉnh Triết Giang. Sau đó, sư cũng đến tham học với Thiền sư Vân Thê Châu Hoằng (Đại sư Liên Trì). Một hôm, sư nghe nghe một vị tăng tụng kinh A-di- đà đến câu ”Nước chảy, chim kêu, cây cối đều phát ra tiếng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng” liền khởi nghi tình. Từ đó, sư đi khắp nơi giống như người điên, ban đêm thường ngủ trong miếu hoang.

Theo truyền thuyết, sống mũi của sư vốn cao thẳng đẹp đẽ, nhưng một hôm lúc sư đang ngồi tọa Thiền trong tư thế kiết-già thì chợt có một cánh tay trên hư không đánh xuống làm gãy sống mũi của sư và nhờ thế sư bỗng nhiên đại ngộ. Nên mới có câu: " Nếu sống mũi không gãy thì đâu được liễu ngộ". Cuối cùng, sư đến gặp Thiền sư Huyễn Hữu Chính Truyền để trình sở ngộ và được ấn khả.

Năm thứ 8 (1635) niên hiệu Sùng Trinh, sư đến ẩn tu tại am Thiên Chỉ ở Kính Sơn. Năm 1639, sư đến trụ trì và thuyết pháp tại chùa Khai Tiên ở Lô Sơn. Năm 1643, sư đến trụ trì tại chùa Đông Tháp ở Gia Hòa, tỉnh Triết Giang.

Một số tác phẩm Thiền học do sư và đệ tử là cư sĩ Quách Ngưng Chi cùng sáng tác:

Cuối đời, sư đến trụ trì và truyền bá Thiền tông tại chùa Vân Mônở vùng Việt Châu, tỉnh Triết Giang. Vào ngày 22 tháng 8 năm thứ 4 niên hiệu Thuận Trị, sư an nhiên tọa Thiền thị tịch. Sư hưởng thọ 77 tuổi đời và hạ lạp 48 năm, tháp mộ an trí tại chùa Vân Môn. Trước khi thị tịch sư có làm bài thiền kệ:

Này bọn trẻ kia có hiểu không

Trên đường sinh tử cứ thong dong

Chừ đây trăng sáng, sương càng lạnh

Uống cạn chén trà đến tịch không.

Hành trạng và ngữ lục của sư được đệ tử biên soạn trong bộ Viên Tín Thiền Sư Ngữ Lục (zh: 雪嶠圓信禪師語錄, 4 quyển).

Tham khảo sửa

  • Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
  • Hư Vân. Phật Tổ Đạo Ảnh.
Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên |
pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán