Nguyễn Hữu Phần

NSND đạo diễn, biên kịch phát Việt Nam

Nguyễn Hữu Phần (10 tháng 1 năm 1948 – 22 tháng 5 năm 2024) là một đạo diễn điện ảnhtruyền hình người Việt Nam. Ông được biết đến qua các bộ phim điện ảnh Em còn nhớ hay em đã quên và những phim truyền hình về làng quê Việt Nam như Đất và người, Ma làng, Gió làng Kình, Làng ma - 10 năm sau. Nguyễn Hữu Phần được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân năm 2015.[1]

Nghệ sĩ Nhân dân
Nguyễn Hữu Phần
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
(1948-01-10)10 tháng 1, 1948
Nơi sinh
Hà Nội
Quê hương
Văn Giang, Hưng Yên
Mất
Ngày mất
22 tháng 5, 2024(2024-05-22) (76 tuổi)
Nơi mất
Hà Nội
Giới tínhnam
Quốc tịch Việt Nam
Nghề nghiệp
Lĩnh vựcĐiện ảnh
Danh hiệuNghệ sĩ nhân dân (2015)
Sự nghiệp điện ảnh
Năm hoạt động1980 – 2014
Đào tạoTrường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội
Thể loạiPhim truyện
Tác phẩm
Giải thưởngGiải thưởng Nhà nước (2012)
Giải thưởng
Liên hoan phim Việt Nam 1993
Biên kịch xuất sắc
Giải Cánh diều 2007
Đạo diễn xuất sắc

Tiểu sử

sửa

Nguyễn Hữu Phần sinh ngày 10 tháng 1 năm 1948 tại Hà Nội,[2] quê gốc ở Văn Giang, Hưng Yên,[3] ông mồ côi cha khi mới 3 tuổi và là con út trong gia đình có 6 anh chị em. Con trai của ông là đạo diễn Nguyễn Hữu Trọng, được biết đến với vai trò đạo diễn cho phim Người thổi tù và hàng tổng5S online.[4] Ông qua đời vào ngày 22 tháng 5 năm 2024 tại Hà Nội, sau thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư.[5][6][7]

Sự nghiệp

sửa

Nguyễn Hữu Phần tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1, ra trường làm giáo viên dạy văn cho đến một lần ông tới chơi với một người bạn thân đang công tác tại Xưởng phim truyện, ông bị hấp dẫn bởi công việc sản xuất phim. Nguyễn Hữu Phần quyết định bỏ nghề giáo viên và bắt đầu làm thư kí cho các đạo diễn Phạm Văn Khoa, Bắc Xuyến, Nguyễn Ngọc Chung, Trần Vũ.[4] Bộ phim đầu tiên ông tham gia là Đất dừa của đạo diễn Huy Vân.[2]

Năm 1979, ông cùng với Khải Hưng, Đỗ Minh Tuấn và Vũ Châu trở thành sinh viên khóa 1 của Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh.[4] Năm 1980, ông làm phó đạo diễn của bộ phim điện ảnh Tội lỗi cuối cùng và được gặp Trịnh Công Sơn, lúc này đảm nhận viết nhạc cho bộ phim.[8] Cuối thập niên 1980, ông là phó đạo diễn bộ phim Biệt động Sài Gòn.[9] Sau này ông tìm lại Trịnh Công Sơn và ngỏ ý sản xuất phim dựa trên cuộc đời nhạc sĩ này. Năm 1990, ông nộp kịch bản nhưng bị Hãng Phim truyện Việt Nam từ chối sản xuất và bị cho là nội dung mơ hồ, kịch bản bị bỏ không mất hai năm.[4] Trong cùng năm, ông đạo diễn bộ phim điện ảnh đầu tay là Chiếc bình tiền kiếp.[9]

Năm 1992, với sự bảo trợ của Hội Điện ảnh Việt Nam, Nguyễn Hữu Phần cùng Lưu Trọng Ninh, Hoàng Nhuận CầmPhi Tiến Sơn thành lập Trung tâm Điện ảnh Trẻ; vì các đạo diễn trẻ thời bấy giờ có quá ít cơ hội trổ tài, nên họ quyết định làm phim độc lập. Cùng năm này, ông sản xuất bộ phim Em còn nhớ hay em đã quên và tự đưa phim đi quảng bá và thành công lớn, với 4 giải Bông sen bạc và giải dành cho Nam diễn viên chính, Âm nhạc và Biên kịch.[8][10] Năm 1994, ông được đạo diễn Khải Hưng mời về công tác tại Hãng phim truyện Đài Truyền hình Việt Nam, bắt đầu với bộ phim Lẽ nào anh lại quên – bộ phim đầu tiên của chương trình Văn nghệ Chủ nhật. Năm 1996, bộ phim Mảnh đời của Huệ do ông đạo diễn được khán giả yêu thích, đây cũng là bộ phim dài tập đầu tiên của chương trình này.[4][8]

Năm 2000, ông nhận lời mời của các nhà biên kịch Phạm Ngọc Tiến, Khuất Quang Thuỵ và đạo diễn Phạm Thanh Phong tham gia làm phim Đất và người, kịch bản được chuyển thể từ tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của nhà văn Nguyễn Khắc Trường. Sau thành công của Đất và người, ông tập trung làm phim về đề tài nông thôn và rất thành công như Ma làng, Gió làng Kình, Làng ma – 10 năm sau,...[11]

Sau khi nghỉ hưu, ông và đồng nghiệp thành lập Công ty Cổ phần và truyền thông Hà Nội, năm 2009, công ty sản xuất trò chơi truyền hình Hà Nội 36 phố phường của VTV, trong chuỗi chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long.[12][13]

Ngoài làm đạo diễn ông còn là giảng viên dạy lớp đạo diễn Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh, thành viên Hội đồng duyệt phim quốc gia.[4] Sau khi về hưu, đầu năm 2015, ông mở công ty truyền thông - nghệ thuật, thực hiện trò chơi truyền hình Hà Nội 36 phố phường.[2]

Tác phẩm

sửa

Điện ảnh

sửa
  • 1990 - Chiếc bình tiền kiếp
  • 1992 - Em còn nhớ hay em đã quên
  • 1995 - Giọt lệ Hạ Long - Đồng đạo diễn : Trần Vũ
  • 1996 - Bản tình ca trong đêm
  • ???? - Lời từ biệt tình yêu
  • 2014 - Mộ gió

Truyền hình

sửa
Năm Phim Ghi chú Định dạng Vai trò Kênh Nguồn
1993 Tiếng gọi bên sông Chuyển thể: Tiếng gọi cuối mùa đông của Nguyễn Quang Thiều Điện ảnh truyền hình Đạo diễn VTV
1994 Lẽ nào anh lại quên Phim đầu tiên của Văn nghệ Chủ nhật VTV1
1995 Mảnh đời của Huệ Phim ngắn tập Biên kịch VTV1
1996 Ngọt ngào và man trá Điện ảnh truyền hình Đạo diễn VTV3
Mùa đông không lạnh giá H1
1997 Ông trẻ về ăn tết VTV3
Những ngã đường tình yêu Đồng đạo diễn : Hoàng Thanh Du
Người năm ấy của mẹ Đạo diễn
1998 Người Hoa Lư Kiêm biên kịch Điện ảnh truyền hình
Một lời nói thật VTV1
Người trên núi VTV1
Lời hẹn ngày ra trận VTV3
1999 Cảnh sát hình sự (1 trong 5 phần đầu, phần 3: Truy đuổi tội phạm) Phim dài tập Đồng đạo diễn
2001 Không giống ai Điện ảnh truyền hình Đạo diễn
2002 Đất và người Đồng đạo diễn: Phạm Thanh Phong Phim dài tập VTV1
2003 Về quê ăn tết Điện ảnh truyền hình VTV3
Ảo vọng xe hơi
Người tử tế sa ngã
Đảo chắn sóng Đạo diễn
2004 Bên ngoài cuộc đời Đồng đạo diễn: Vũ Hồng Sơn Điện ảnh truyền hình Chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của Thái Bá Tân
Trăng lạnh Đồng biên kịch: Nguyễn Hữu Ứng Biên kịch
2005 Bí mật những cuộc đời Đồng đạo diễn: Vũ Hồng Sơn Phim dài tập Đạo diễn Cảnh sát hình sự / Chuyển thể tiểu thuyết cùng tên của Nguyễn Như Phong
Mười hai cửa bể Chuyển thể truyện ngắn cùng tên của Lý Biên Cương Điện ảnh truyền hình
Minh nguyệt Chuyển thể truyện ngắn cùng tên của Học Phi
Con đường gian khổ Phim ngắn tập
2007 Ma làng Chuyển thể tiểu thuyết cùng tên của Trịnh Thanh Phong Phim dài tập Đồng đạo diễn, đồng biên kịch VTV1
Những người bạn Điện ảnh truyền hình Đạo diễn / Biên kịch VTV3
2008 Gió làng Kình Đồng đạo diễn: Bùi Thọ Thịnh Phim dài tập Đạo diễn VTV1 Chuyển thể tiểu thuyết Những trận gió người của Phạm Ngọc Tiến
2011 Nụ hôn đầu xuân Phim ngắn tập Đồng đạo diễn, đồng biên kịch VTV3
2013 Làng ma 10 năm sau Phần sau của Ma làng Phim dài tập Đạo diễn, biên kịch VTV1
Đen trắng (Phim cuối tuần) Điện ảnh truyền hình Đạo diễn

Giải thưởng

sửa
Năm Lễ trao giải Hạng mục Tác phẩm Kết quả Nguồn
1992 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 10 Phim truyện điện ảnh Em còn nhớ hay em đã quên Bông sen bạc
Biên kịch xuất sắc Đoạt giải
1995 Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam 1994 Phim truyện nhựa Giọt lệ Hạ Long Giải B [14][15]
1996 Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam 1995 Bản tình ca trong đêm Giải B [16][17]
Phim truyện truyền hình Ngọt ngào và man trá Giải khuyến khích [18]
2002 Giải Cánh diều 2002 Phim truyện truyền hình Đất và người Bằng khen [19]
2007 Giải Cánh diều 2007 Ma làng Cánh diều bạc [20]
Đạo diễn xuất sắc Đoạt giải [21]
2008 Giải Cánh diều 2008 Phim truyện truyền hình Gió làng Kình Cánh diều bạc [22]
2009 Liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 28 Phim truyền hình Giải vàng [23]

Tham khảo

sửa
  1. ^ Đậu Dung (22 tháng 5 năm 2024). “Vĩnh biệt đạo diễn Nguyễn Hữu Phần của phim Ma làng, Đất và người”. Tuổi trẻ Online. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b c “Đạo diễn, NSND Nguyễn Hữu Phần phim 'Ma làng' qua đời”. Báo điện tử Tiền Phong. 22 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  3. ^ toquoc.vn. “Nguyễn Hữu Phần: Người thành phố, hồn nông thôn”. toquoc.vn. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2022.
  4. ^ a b c d e f cand.com.vn. “Đạo diễn, NSND Nguyễn Hữu Phần: Màu thời gian”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2022.
  5. ^ Trí, Dân (23 tháng 5 năm 2024). “Điều ít biết về đạo diễn Nguyễn Hữu Phần qua lời kể của con trai”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  6. ^ “NSND Nguyễn Hữu Phần - đạo diễn làm bộ phim cuối cùng và đọc điếu văn cho Lê Công Tuấn Anh”. laodong.vn. 23 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ VTV, BAO DIEN TU (22 tháng 5 năm 2024). “Đạo diễn 'Ma làng' Nguyễn Hữu Phần qua đời”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ a b c “Đạo diễn Nguyễn Hữu Phần: Muốn "ăn" về nghệ thuật”. Báo Công an Nhân dân điện tử (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2022.
  9. ^ a b Hà Thu (22 tháng 5 năm 2024). “Đạo diễn 'Ma làng' qua đời”. VnExpress. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  10. ^ “Đạo diễn - NSND Nguyễn Hữu Phần: Phim Việt chưa hay vì... khán giả chưa hay!”. thethaovanhoa.vn. 19 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2022.
  11. ^ đô, Báo Lao động thủ. “Đạo diễn Nguyễn Hữu Phần gửi gắm gì qua những bộ phim về nông thôn”. Báo Lao động thủ đô. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2022.
  12. ^ “Nguyễn Hữu Phần tâm đắc với 'Hà Nội 36 phố phường'. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2022.
  13. ^ https://suckhoedoisong.vn. "Chuyên án nhà quê" của đạo diễn Nguyễn Hữu Phần”. suckhoedoisong.vn. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2022.
  14. ^ Ngô Mạnh Lân và đồng nghiệp (2005), tr. 649.
  15. ^ Ngô Phương Lan (1998), tr. 349.
  16. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010a), tr. 729.
  17. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 818.
  18. ^ Bộ Văn hóa và Thông tin (1997). “Năm 1996 của Hội Điện ảnh Việt Nam”. Văn hóa Nghệ thuật (151–157): 90. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2022.
  19. ^ “Giải thưởng cánh diều vàng năm 2002”. Ngày hội Điện ảnh. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2021.
  20. ^ Mai Xuân Nghiên (11 tháng 3 năm 2008). “Cánh diều vàng 2007: Nhàn nhạt và cào bằng”. Nông nghiệp Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2021.
  21. ^ Minh Nhật (9 tháng 3 năm 2008). “Trao giải Cánh diều vàng 2007: Mất mùa vàng”. Nhân Dân. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2021.
  22. ^ Ngọc Trần (2 tháng 3 năm 2009). “Phim nhựa lại lỗi hẹn với Cánh Diều Vàng”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2022.
  23. ^ Hải Phương (18 tháng 2 năm 2009). “Giải Cánh diều 2008: Mùa thất bát?”. Người lao động. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2022.

Nguồn

sửa