Nguyễn Văn Đông
Nguyễn Văn Đông (1932–2018) nguyên là một sĩ quan Bộ binh cao cấp trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang cấp bậc Đại tá. Xuất thân từ Trường Võ bị Địa phương do Quân đội Pháp đào tạo. Đồng thời ông được nhiều người biết đến với tư cách là một nhạc sĩ nổi tiếng qua các ca khúc như Chiều mưa biên giới, Sắc hoa màu nhớ,... Một số bút danh khác của ông là Phượng Linh, Phương Hà, Hoài Phương, Vì Dân và Đông Phương Tử.[1]
Nguyễn Văn Đông | |
---|---|
![]() Chân dung nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông (1964) | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 11/1972 – 4/1975 |
Cấp bậc | -Đại tá (11/1972) |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Tổng tham mưu trưởng Tổng tham mưu phó | -Đại tướng Cao Văn Viên -Trung tướng Nguyễn Văn Là -Trung tướng Nguyễn Văn Mạnh |
Nhiệm kỳ | 6/1968 – 11/1972 |
Cấp bậc | -Trung tá (6/1968) |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Nhiệm kỳ | 11/1963 – 6/1968 |
Cấp bậc | -Thiếu tá (11/1963) |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Nhiệm kỳ | 11//1961 – 11/1963 |
Cấp bậc | -Đại úy (10/1959) |
Vị trí | Quân khu Thủ đô |
Tổng Tham mưu trưởng | -Đại tướng Lê Văn Tỵ |
Nhiệm kỳ | 6/1958 – 11/1961 |
Cấp bậc | -Trung úy |
Vị trí | Thủ đô Sài Gòn |
Trưởng phòng 3 Tác chiến Phân khu Đồng Tháp Mười | |
Nhiệm kỳ | 11/1955 – 12/1957 |
Cấp bậc | -Trung úy (8/1954) |
Vị trí | Đệ ngũ Quân khu |
Phân khu trưởng | -Đại tá Nguyễn Văn Là |
Trưởng phòng Hành quân Phân khu Đồng Tháp Mười | |
Nhiệm kỳ | 8/1954 – 11/1955 |
Cấp bậc | -Thiếu úy (10/1952) |
Vị trí | Đệ ngũ Quân khu (Miền tây Nam Phần) |
Phân khu trưởng | -Đại tá Nguyễn Văn Là |
Nhiệm kỳ | 4/1954 – 8//1954 |
Cấp bậc | Thiếu úy (10/1952) |
Vị trí | Đệ tam Quân khu Bắc Việt |
Thông tin chung | |
Quốc tịch | ![]() ![]() |
Sinh | 15 tháng 3 năm 1932 Sài Gòn, Đông Dương thuộc Pháp |
Mất | 26 tháng 2 năm 2018 (86 tuổi)[1][2] Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam |
Nơi ở | Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam |
Nghề nghiệp | Quân nhân Nhạc sĩ |
Dân tộc | Kinh |
Học vấn | Tú tài bán phần |
Trường lớp | –Trường Huỳnh Khương Ninh ở Đa Kao, Sài Gòn –Trường Thiếu sinh quân Đông Dương ở Vũng Tàu –Trường Võ bị Địa phương Vũng Tàu –Trung tâm Chiến thuật Hà Nội –Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt trường Chỉ huy Tham mưu Sơ cấp Hawaii, Hoa Kỳ |
Quê quán | Lợi Thuận, Bến Cầu, Tây Ninh |
Binh nghiệp | |
Phục vụ | ![]() |
Thuộc | ![]() |
Năm tại ngũ | 1951 – 1975 |
Cấp bậc | ![]() |
Đơn vị | ![]() ![]() |
Chỉ huy | ![]() ![]() |
Tham chiến | – Chiến tranh Đông Dương – Chiến tranh Việt Nam |
Khen thưởng | ![]() |
Nguyễn Văn Đông | |
---|---|
Nghệ danh | Phượng Linh Phương Hà Hoài Phương Vì Dân Đông Phương Tử |
Dòng nhạc | Nhạc vàng Tình khúc 1954-1975 |
Hãng đĩa | Continental Sơn Ca |
Hợp tác với | Minh Kỳ Mạnh Phát Thu Hồ Song Ngọc Ngọc Sơn |
Ca khúc tiêu biểu | Chiều mưa biên giới Khi đã yêu Nhớ một chiều xuân Sắc hoa màu nhớ |
Ca sĩ trình bày thành công | Thanh Tuyền Hà Thanh Giao Linh |
Tiểu sử và binh nghiệpSửa đổi
Ông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại quận 1, Sài Gòn, nguyên quán ở Lợi Thuận, Bến Cầu, Tây Ninh trong một gia đình nguyên là một điền chủ lớn có nhiều ruộng đất ở Tây Ninh. Thiếu thời, do gia đình có điều kiện nên ông học tại tư gia dưới sự hướng dẫn của thầy học. Sau đó ông theo học bậc Trung học tại trường Huỳnh Khương Ninh ở Đa Kao, Quận 1.[3] Năm 1945, nhà cầm quyền Pháp đóng cửa trường Huỳnh Khương Ninh; năm 1946, gia đình gửi ông vào trường Thiếu sinh quân Đông Dương ở Vũng Tàu khi ông 14 tuổi.[4] Thời gian tại đây, ông được học nhạc với các giảng viên âm nhạc của Học viện Âm nhạc Quốc gia Pháp sang giảng dạy. Chỉ sau một thời gian ngắn, ông trở thành một thành viên của ban quân nhạc thiếu sinh quân, học cách sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Năm 16 tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay như "Thiếu sinh quân hành khúc", "Tạm biệt mùa hè"...[3] Năm 19 tuổi, ông rời trường Thiếu sinh quân và được cấp Chứng chỉ tốt nghiệp tương đương với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
Quân đội Quốc gia Việt NamSửa đổi
Cuối năm 1951, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia Việt Nam, mang số quân 52/120.117, sau đó được cử theo học khóa 4 trường Võ bị Địa phương Vũng Tàu. Tháng 10 năm 1952, mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy phục vụ đơn vị Bộ binh. Đầu năm 1953, ông được cử đi học khóa huấn luyện "Đại đội trưởng" tại trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt. Đầu năm 1954 ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa "Tiểu đoàn trưởng" tại Trung tâm Chiến thuật Hà Nội.[5] Ra trường, ông được cử giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trọng pháo 553 và là Tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của Quân đội Quốc gia khi mới 22 tuổi.[4] Sau Hiệp định Genève (1954), đầu tháng 8 ông di chuyển vào Nam và được thăng cấp Trung úy, phục vụ tại Phân khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trưởng phòng Hành quân, dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Là.
Quân lực Việt Nam Cộng hòaSửa đổi
Đầu tháng 11 năm 1955, ông được chuyển biên chế sang Quân lực Việt Nam Cộng hòa, kiêm nhiệm chức vụ Trưởng phòng 3 (Tác chiến) của Phân khu Đồng Tháp Mười. Năm 1956 ông tham gia Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu do tướng Dương Văn Minh làm Tư lệnh để đánh dẹp lực lượng quân sự Phật giáo Hòa Hảo, và tướng Minh từng đến bắt tay ông tỏ lòng ngưỡng mộ.[6]
Cuối năm 1957 ông được cử đi du học khóa Chỉ huy Tham mưu sơ cấp tại tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ.[7] Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Đại úy tại nhiệm. Tháng 11 năm 1961, ông chuyển về Bộ Tổng tham mưu, phục vụ trong Khối Lãnh thổ (Thời điểm này Tổng Tham mưu trưởng là Đại tướng Lê Văn Tỵ).
Sau Đảo chính 1963 ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức vụ phó phòng Nhân viên ở Khối lãnh thổ. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968 ông được thăng cấp Trung tá lên làm trưởng phòng Nhân viên trong khối Lãnh thổ. Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972 ông được thăng cấp Đại tá, chuyển sang làm Chánh Văn phòng cho Tổng Tham mưu phó. Ông giữ chức vụ này cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. (Thời gian giữ chức Chánh văn phòng, trải qua 2 vị Tổng Tham mưu phó là Trung tướng Nguyễn Văn Là (1968-1974) và Trung tướng Nguyễn Văn Mạnh (1974-1975), Tổng Tham mưu trưởng là Đại tướng Cao Văn Viên)
Huy chươngSửa đổi
- Đệ tứ đẳng Bảo quốc Huân chương (tặng thưởng)
- Một số huy chương quân sự, dân sự khác (tặng thưởng)
Sau 1975Sửa đổi
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, vì là một sĩ quan cao cấp của chính thể cũ nên ông bị chính quyền mới bắt đi học tập cải tạo, bắt đầu từ trại Suối Máu (Biên Hòa), một thời gian sau thì bị đưa về giam ở khám Chí Hòa cho đến khi được trả tự do vào năm 1985. Tuy nhiên, khi có Chương trình Ra đi Có trật tự (ODP), ông không xin đi xuất cảnh mà ở lại Việt Nam sống thầm lặng cùng gia đình tại quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông qua đời vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 26 tháng 2 năm 2018 tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh.[1]
Hoạt động trong lĩnh vực âm nhạcSửa đổi
Ngay từ thập niên 1950 ông đã nổi tiếng khi là Trưởng Đoàn văn nghệ Vì Dân với thành phần ca nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim,... Ông đã tổ chức và điều khiển các chương trình đại nhạc hội tại Sài Gòn và khắp các tỉnh của Việt Nam Cộng hòa.
Từ năm 1958 ông là Trưởng ban Ca nhạc Tiếng thời gian của Đài Phát thanh Sài Gòn, gồm những danh ca, nhạc sĩ danh tiếng như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Đàm, Anh Ngọc... Năm sau ông là Trưởng ban tổ chức Đại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc ở cấp Quốc gia, đã quy tụ trên 40 Đoàn Văn nghệ đại diện cho cả miền Nam cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài Gòn. Ông cũng từng nhận giải Âm nhạc Quốc gia, một giải thường do bà Trần Lệ Xuân trao tặng.
Ông còn là Giám đốc hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, cộng tác với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân,... Hai cơ sở của ông cho ra đời nhiều chương trình tân nhạc cũng như cổ nhạc gồm các vở tuồng và cải lương. Ngoài ra ông đã có công phát hiện và đào tạo ca sĩ Thanh Tuyền khi cô còn là nữ sinh Đà Lạt tạo ra sự nghiệp lừng lẫy cho nữ danh ca sau này. Ca sĩ Giao Linh cũng là học trò do chính ông đào tạo và lăng xê, sau này là một tượng đài của dòng nhạc Vàng.
Nguyễn Văn Đông là người đã tiên phong thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng ai làm. Ông đã thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng trong đó có Khánh Ly với băng nhạc Sơn Ca 7, Thái Thanh và Ban Thăng Long – Sơn Ca 10, Lệ Thu – Sơn Ca 9, Phương Dung – Sơn Ca 5 và Sơn Ca 11, Giao Linh – Sơn Ca 6, Sơn Ca – Sơn Ca 8,... và một số album riêng cho Trịnh Công Sơn.
Nhiều sáng tác của ông viết về chủ đề người lính miền Nam thời đó. Nhạc phẩm "Phiên gác đêm xuân" được ông viết vào đêm 30 Tết Nguyên Đán năm 1956 khi gác phiên ở khu 9 Đồng Tháp Mười. "Chiều mưa biên giới" ra đời năm 1956 và nổi tiếng qua tiếng hát của Trần Văn Trạch. "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp" nổi tiếng qua tiếng hát của Hà Thanh nhưng thường bị nhầm với nhạc phẩm "Khúc tình Kinh Kha" của Phạm Duy.
Ông còn có nhiều bút danh khác như Phượng Linh, Phương Hà trên một số nhạc phẩm tình cảm như "Khi đã yêu", "Thầm kín", "Niềm đau dĩ vãng", "Nhớ một chiều xuân"... Với bút danh Đông Phương Tử và Phượng Linh, ông đã viết nhạc nền và đạo diễn cho trên 50 vở tuồng, cải lương nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975 như Nửa đời hương phấn, Đoạn tuyệt, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng...
Ca sĩ trình bày thành công: Thanh Tuyền, Hà Thanh, Giao Linh.
Sau khi ông qua đời, Trung tâm Thúy Nga thực hiện chương trình Paris By Night 125 - Chiều Mưa Biên Giới để vinh danh dòng nhạc và tưởng niệm ông.[8]
Danh sách ca khúcSửa đổi
STT | Tên tác phẩm | Bút hiệu | Chú thích |
---|---|---|---|
Anh | |||
Anh trước tôi sau | |||
Áo trắng người yêu | |||
Bà mẹ hai con | |||
Bài ca hạnh phúc | |||
Bến đò biên giới | |||
Bông hồng cài áo trắng | Khác với "Bông hồng cài áo" của Phạm Thế Mỹ | ||
Chiều mưa biên giới | |||
Cuốn theo chiều gió | Khác với bài cùng tên của Anh Việt Thu | ||
Cung thương ngày cũ | Đồng sáng tác với Mạnh Phát | ||
Dáng xuân xưa | |||
Dù biết thế | |||
Đêm buồn | Đồng sáng tác với Lam Phương | ||
Đôi bờ thương nhớ[a] | |||
Hải ngoại thương ca | Kính tặng Việt Kiều bốn phương Hải Ngoại hẹn về góp sức xây dựng quê hương giữa mùa núi sông Đại Hội | ||
Hiến dâng | |||
Hoa đêm | |||
Hồi chuông kỉ niệm | Đồng sáng tác với Song Ngọc | ||
Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp | |||
Khúc xuân ca | |||
Lá thư người lính chiến | |||
Mấy dặm sơn khê | |||
Mùa sao sáng | |||
Ngày mai anh về | |||
Người tình yêu dấu | |||
Nguyện cầu trên bến ngàn năm | |||
Nếu có em bên anh | |||
Nhớ một chiều xuân | |||
Nhớ người viễn xứ | Đồng sáng tác với Lâm Tuyền | ||
Núi và gió | |||
Phiên gác đêm xuân | |||
Thu hoài cảm | |||
Tình cố hương | |||
Tình đầu xót xa | |||
Trái tim Việt Nam | |||
Truông mây | |||
Về mái nhà xưa | |||
Vô thường | |||
Xin chúa thấu lòng con | |||
Xuân tha hương | Đồng sáng tác với Lâm Tuyền | ||
Bóng nhỏ giáo đường | |||
Cay đắng tình đời | |||
Chiếc bóng công viên | |||
Chuyện tình hoa Pensée | |||
Cô nữ sinh Gia Long | |||
Dạ sầu (Nỗi buồn duyên kiếp) | |||
Đoàn chim cánh sắt | Đồng sáng tác với Ngọc Sơn | ||
Đom đóm | |||
Đoạn tuyệt | |||
Em vẫn của anh | |||
Em yêu người lính chiến | Đồng sáng tác với Thu Hồ | ||
Khi đã yêu | |||
Lời cuối cùng cho nhau | |||
Lời giã biệt[b] | |||
Mây chiều | Đồng sáng tác với Mây Tần | ||
Niềm đau dĩ vãng | |||
Thầm kín (Bẽ bàng) | Đồng sáng tác với Tuấn Khanh | ||
Thương muộn | |||
Thương về mùa đông biên giới | |||
Tình người ngoại đạo | |||
Rồi một đêm đó | |||
Xin đừng trách anh | |||
Hẹn ước đêm xuân | |||
Ai phụ lòng ai? | |||
Cho tôi tìm 1 tình yêu | |||
Chuyện người miền xa | |||
Duyên thắm mộng lành | |||
Em hãy về đi | |||
Lẻ loi | |||
Lời hứa ban đầu | |||
Màu hoa kỷ niệm | |||
Màu xanh Noel | |||
Mỗi độ xuân về | |||
Ngỏ ý | |||
Nỗi buồn sân ga | |||
Nhật ký chúng mình | |||
Người mang kỷ niệm | |||
Rồi | |||
Tại anh hay tại em? | |||
Trăng sáng miền địa đầu | |||
Viễn xứ ca | |||
Việt Nam hôm nay | |||
Đồng Tháp duyên gì | Đồng sáng tác với Minh Kỳ | ||
Sắc hoa màu nhớ [c] | |||
Khúc quân hành | |||
Súng đàn | |||
Tâm sự nàng Kiều | |||
Nhớ Huế | |||
Chúc tết | |||
Một lần đến thăm anh | Viết lời tân cổ cho bài của Tuấn Hải. | ||
Hái lộc đầu năm | Viết lời tân cổ cho bài của Ngọc Sơn và Triết Giang. | ||
Ave Maria | Soạn lời Việt | ||
Đêm thánh huy hoàng | Khác với bài "Đêm thánh vô cùng" do Hùng Lân soạn lời Việt dựa theo nhạc của nguyên tác bài "Silent Night" | ||
Hồi chuông nửa đêm | Soạn lời Việt |
Chú thíchSửa đổi
- ^ a b c Quỳnh Nguyễn (ngày 27 tháng 2 năm 2018). “Tác giả 'Chiều mưa biên giới' qua đời ở tuổi 86”. Tuổi trẻ. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2018.
- ^ “Tác giả ca khúc Chiều Mưa Biên Giới qua đời ở Sài Gòn”. BBC. ngày 27 tháng 2 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2018.
- ^ a b Trường Kỳ (26 tháng 11 năm 2008). “Nguyễn Văn Đông: Giữa binh nghiệp và âm nhạc”. TiVi Tuần-san. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2012.
- ^ a b Du Tử Lê. “Binh nghiệp và nhạc nghiệp của Nguyễn Văn Đông”. Người Việt. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2012.
- ^ Sau Hiệp định Genève, trường chuyển cơ sở vào Sài Gòn và cải danh thành Trường Đại học Quân sự. Năm 1960 trường di chuyển lên Đà Lạt đổi tên thành Trường Chỉ huy và Tham mưu. Năm 1971, một lần nữa trường lại di chuyển cơ sở về Long Bình, Biên Hòa.
- ^ Bức ảnh chụp tướng Minh bắt tay ông đã được in trên trang nhất của báo Chiến sĩ Cộng hòa.
- ^ Trong thời gian này ông cho ra đời tác phẩm "Nhớ một chiều xuân".
- ^ “XEM SHOW THU HÌNH CỦA TRUNG TÂM THÚY NGA: "CHIỀU MƯA BIÊN GIỚI" GẮN LIỀN CÙNG NHẠC SĨ NGUYỄN VĂN ĐÔNG NGƯỜI CỰU TÙ SUỐI MÁU”.
Tham khảoSửa đổi
- Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.