On the 6album phòng thu đầu tay của nghệ sĩ thu âm kiêm diễn viên người Mỹ Jennifer Lopez, album được phát hành vào ngày 1 tháng 6 năm 1999 bởi hãng thu Work Records. Lopez, người chỉ được biết đến với vai trò là diễn viên, đã bắt tay vào việc thực hiện album vào cuối năm 1998. On The 6 xuất hiện tại vị trí thứ 8 trên bảng xếp hạng Billboard 200 tại Mỹ, với 112,000 bản được tiêu thụ vào tuần đầu tiên. Kể từ khi Work Records sáp nhập thành Epic Records, Lopez đã ký hợp đồng với Epic và On the 6 sau đó đã được phát hành bởi hãng Columbia Records. Album gồm đĩa đơn quán quân Billboard Hot 100, "If You Had My Love", và bài hát lọt vào tốp 10, "Waiting for Tonight", cùng ba đĩa đơn khác tương đối thành công trên các bảng xếp hạng gồm, "Let's Get Loud", "Feelin' So Good" và "No Me Ames". On The 6 đã bán được ba triệu bản toàn thế giới vào tháng 8 năm 2000,[1] và 8 triệu bản toàn thế giới tính đến nay.[2]

On the 6
Album phòng thu của Jennifer Lopez
Phát hành1 tháng 6 năm 1999
Thu âmCuối năm 1998–Tháng 3 năm 1999
Thể loạiPop, R&B, latin pop
Thời lượng64:49
Hãng đĩaColumbia, Work
Sản xuấtDarrell Branch, Tommy Mottola, P. Diddy, Loren Dawson, Lawrence Dermer, Emilio Estefan, Jr., Rob Jenkins, Darkchild, Richie Jones, Poke & Tone, Lance "Un" Rivera, Cory Rooney, Kike Santander, Dan Shea, Ric Wake, Alvin West, Juan Vicente Zambrano
Thứ tự album của Jennifer Lopez
On the 6
(1999)
J.Lo
(2001)
Đĩa đơn từ On the 6
  1. "If You Had My Love"
    Phát hành: 21 tháng 5 năm 1999
  2. "No Me Ames"
    Phát hành: 28 tháng 5 năm 1999
  3. "Waiting for Tonight"
    Phát hành: 16 tháng 11 năm 1999
  4. "Feelin' So Good"
    Phát hành: 17 tháng 3 năm 2000
  5. "Let's Get Loud"
    Phát hành: 8 tháng 8 năm 2000

Album mang âm hưởng nhạc Tây Ban Nha-Pop nói về chủ đề tình yêu, kết hợp với cuộc sống đời thường của Lopez, được thể hiện rõ qua ca khúc "Feelin' So Good".[3] Sau On The 6, Lopez đã tự mình chuyển sang từ một nữ diễn viên đến một ca sĩ thành công trong vòng 12 tháng.[4] Đây chính là một trong những album thành công nhất của Lopez.

Bối cảnh thực hiện sửa

Đầu năm 1999, Lopez đã bỏ tiền để thu âm bốn ca khúc thu thử và gửi đến hãng thu của Sony. Hãng thu "rất thích nó", nhưng khuyên rằng cô nên hát bằng tiếng Anh, thay vì bằng tiếng Tây Ban Nha trong bản demo.[5] Việc quảng bá cho album đã được bắt đầu vào tháng 5 năm 1999.[6] Tựa đề On The 6 có nhắc đến tuyến tàu điện ngầm số 6, nơi cô thường bắt tàu để đi lại từ quê hương của cô, the Bronx đến nơi làm việc của mình là Manhattan trong những năm khởi nghiệp tại Castle Hill.[6][7] Lopez chia sẻ rằng On The 6 mang "linh hồn nhạc Latin" và mong muốn rằng album sẽ thu hút những người giống như cô, "Tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ của tôi. Tôi lớn lên ở đây. Tôi được sinh ra tại đây, tôi không hề có sự nghiệp tại Tây Ban Nha trước đây. Tôi nghĩ rằng nó [album] đương nhiên sẽ thu hút những thế hệ người như tôi, tôi lớn lên ở Mỹ nhưng tôi có cha mẹ là người Latin hay đúng hơn là cha mẹ thuộc một dân tộc khác."[6] Tên gốc của album vốn dĩ được đặt là Feelin' So Good, vì cô muốn "Feelin' So Good" trở thành đĩa đơn dẫn đầu, tuy nhiên, "If You Had My Love" sau đó đã thay thế vị trí này.[8] Album gồm hai ca khúc hát lại của Diana Ross là: "Promise Me You'll Try" (là bài hát tặng kèm trong những ấn bản phát hành bên ngoài Hoa Kỳ) và "Nhạc chủ đề từ Mahogany (Do You Know Where You're Going To)".

Đĩa đơn và giải thưởng sửa

Đĩa đơn đầu tiên từ album, "If You Had My Love" được phát hành vào ngày 21 tháng 5 năm 1999. Ca khúc xuất hiện với vị trí khá thấp trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 là 64, nhờ lượng phát thanh và số bán cao, ca khúc đã vươn lên vị trí đầu bảng vào ngày 12 tháng 6 năm 1999, trở thành đĩa đơn dẫn đầu quán quân đầu tiên của cô; đây đồng thời cũng là ca khúc đứng đầu duy nhất của cô mà không cần video âm nhạc.[9][10]

"If You Had My Love" trụ vững trên bảng xếp hạng tổng cộng 25 tuần, cũng như vươn lên bảng xếp hạng Billboard Pop Songs.[10] Nhìn lại thành công của bài hát, trong một bài phỏng vấn vào năm 2011, Lopez cho rằng "Tôi vẫn nghĩ về nó [ca khúc] và vẫn rất ngạc nhiên, bài hát đầu tiên mà tôi thực hiện đã leo lên vị trí số một. Đó là một cảm xúc khó tả. Điều không phải lúc nào cũng xảy ra cả. Đây chính là một điều rất đặc biệt."[11] Album sau đó đã tiếp tục phát hành ca khúc "Waiting For Tonight", vươn lên vị trí số 8 trên bảng xếp hạng Hot 100 và quán quân bảng Dance Club.[12] Trước khi phát hành "Waiting For Tonight", bản ballad tiếng Tây Ban Nha mang âm hưởng nhạc Latin song ca với Marc Anthony (người cô đã kết hôn từ năm 2004 đến 2011), "No Me Ames" đã được phát hành nhưng lại không giành được vị trí nào trên các bảng xếp hạng chính.[6] "No Me Ames" nhận được hai đề cử tại lễ trao Giải Latin Grammy cho "Trình diễn Song ca hoặc nhóm nhạc Pop xuất sắc nhất" và "Video âm nhạc xuất sắc nhất".

On the 6 gồm sự xuất hiện của Big PunFat Joe trong ca khúc "Feelin' So Good", giành được thành công tương đối trên bảng Hot 100, nhưng lại thất bại trong việc lọt vào tốp 50. "Let's Get Loud", đĩa đơn cuối cùng từ album, giúp Lopez nhận được một đề cử Giải Grammy cho hạng mục "Thu âm nhạc Dance xuất sắc nhất" vào năm 2001. "Waiting for Tonight" đồng thời cũng nhận được đề cử này vào năm trước.[13]

Đánh giá chuyên môn sửa

Đánh giá chuyên môn
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
Allmusic      đường dẫn
Entertainment Weekly(C) đường dẫn
Rolling Stone      đường dẫn
Urban Latino     đường dẫn

Rob Sheffield từ tạp chí Rolling Stone cho album (và Lopez) một đánh giá khả quan, viết rằng "Điều bất ngờ đáng vui mừng trong On the 6 đó chính là cô ấy biết mình đang làm gì. Thay cho giọng hát đầy căng thẳng đến nổi trội, Lopez lại dính với tiếng thì thào nhạc R&B đầy gượng gạo của một ngôi sao mới nổi, người không cần phải nổi bật vì cô đã sẵn biết rằng mình đã gây chú ý." Anh đồng thời cũng cho rằng cô có "đầy sự tự phụ, tự tin rõ ràng" nhờ nhà sản xuất âm nhạc Rodney Jerkins và gợi nhớ đến tác phẩm kinh điển năm 1964 của Ann-Margret, Al Hirt, Beauty and the Beard."[14] Một nhà phê bình từ Newsday cho rằng "cô ấy rất nghiêm túc về sự nghiệp ca hát của mình, mặc những lời đánh giá lãnh đạm của On the 6 [...] những nhà phê bình vẫn cho rằng phần bìa đĩa hào nhoáng bên ngoài còn tốt hơn cả giọng hát của Lopez."[15]

Diễn biến thương mại sửa

Album xuất hiện tại vị trí thứ 8 trên bảng xếp hạng U.S. Billboard 200 vào tuần 19 tháng 6 năm 1999 cùng 112,000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu tiên,[16] và nằm trong tốp 20 tổng cộng 11 tuần và 53 tuần trên bảng xếp hạng (kèm theo một lần xuất hiện lại). Lopez sau đó đã dẫn đầu lễ trao giải Billboard Music Video Awards năm 1999 với 7 đề cử, tương tự như Christina Aguilera.[17]

Danh sách ca khúc sửa

STTNhan đềSáng tácNhà sản xuấtThời lượng
1."If You Had My Love"Rodney Jerkins, Fred Jerkins III, LaShawn Daniels, Cory RooneyR. Jerkins4:26
2."Should've Never"Rooney, Jennifer Lopez, Samuel Barnes, Jean-Claude Olivier, Tonino Baliardo, Nicolas ReyesPoke and Tone, Rooney, Dan Shea6:14
3."Too Late"Rooney, Lopez, Alvin WestWest, Rooney4:27
4."Feelin' So Good" (cùng Big PunFat Joe)Rooney, Lopez, Christopher Rios, Joseph Cartagena, Sean Combs, Steven Standard, George LogiosCombs5:26
5."Let's Get Loud"Emilio Estefan, Kike SantanderEstefan, Santander3:59
6."Could This Be Love"Lawrence DermerEstefan, Dermer4:25
7."No Me Ames" (Tropical Remix) (song ca với Marc Anthony)Giancarlo Bigazzi, Marco Falagiani, Ignacio Ballesteros, Aleandro BaldiEstefan5:04
8."Waiting for Tonight"Maria Christensen, Michael Garvin, Phil TempleRic Wake4:06
9."Open Off My Love"Darrell Branch, Kyra Lawrence, Lance RiveraBranch4:34
10."Promise Me You'll Try"Peter Zizzo, LopezWake3:52
11."It's Not That Serious"R. Jerkins, F. Jerkins III, Rooney, Lopez, Loren DawsonJerkins, Dawson4:16
12."Talk About Us"RooneyRooney, Shea4:34
13."No Me Ames" (Phiên bản Ballad)Bigazzi, Falagiani, Ballesteros, BaldiShea4:39
14."Una Noche Más"Christensen, Garvin, Temple, Manny BenitoWake4:06
Tổng thời lượng:64:01

Xếp hạng sửa

Số lượng đĩa bán và chứng nhận sửa

Hiệp hội Chứng nhận Số bán
Argentina CAPIF Bạch kim[24] 40,000
Úc ARIA Vàng[25] 35,000
Áo IFPI Vàng[26] 10,000
Canada CRIA 5× Bạch kim[27] 500,000
Châu Âu IFPI Bạch kim[28] 1,000,000
Phần Lan IFPI Vàng[29] 15,000
Pháp SNEP 2× Vàng[30] 210,000[31]
Đức IFPI Vàng[32] 250,000[33]
Hà Lan NVPI Bạch kim[34] 60,000
New Zealand RIANZ 2× Bạch kim[35] 30,000
Phần Lan ZPAV Bạch kim[36] 60,000
Thụy Sĩ IFPI Vàng[37] 15,000
Anh BPI Bạch kim[38] 300,000
Hoa Kỳ RIAA 3× Bạch kim[39] 3,000,000
Toàn thế giới 8,000,000[2]

Chú thích sửa

  1. ^ Mooney, Joshua (ngày 19 tháng 8 năm 2000). “Jennifer Lopez disses diva reputation; Successful singer and star of new movie is in a word... nice”. Toronto Star. Toronto. Work on her second album, the follow-up to her three million-selling On The 6, is going well. She's got three new movies in various stages of completion, including Angel Eyes, which was filmed in Toronto this summer. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  2. ^ a b "Sony & BMG Jennifer Lopez Gallery". Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2011.
  3. ^ Tarradell, Mario (ngày 4 tháng 6 năm 1999). “JENNIFER LOPEZ ON THE 6”. Orlando Sentinel. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  4. ^ “Puff Daddy out on bail”. BBC News. Tuesday, ngày 28 tháng 12 năm 1999. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2012. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  5. ^ Pearlman, Cindy (ngày 14 tháng 8 năm 1999). “For the record; Very hot and ambitious actress Jennifer Lopez has music on her mind”. The Record. Kitchener, Ontario. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  6. ^ a b c d “Lopez first CD to be released June 1”. The Tuscaloosa News. ngày 25 tháng 5 năm 1999. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2012.
  7. ^ (News) Native New Yorker Jennifer Lopez Celebrates city's Puerto Rican Day, Lewiston Morning Tribune, ngày 15 tháng 6 năm 1999
  8. ^ “Facts & Tidbits”. JLoBronx.com. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2006.
  9. ^ “Jennifer Lopez Eyes New Film Roles”. MTV (mtv.com). ngày 18 tháng 6 năm 1999. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2012.
  10. ^ a b “If You Had My Love – Larry Gold (Billboard.com)”. Billboard (billboard.com). Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2012.
  11. ^ billboard.com (ngày 15 tháng 12 năm 2011). “1000 No. 1s Video Series Day 15: Jennifer Lopez Talks About Topping the Hot 100”. Billboard (billboard.com). Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2012.
  12. ^ Billboard.com. “Waiting For Tonight – Richie Jones”. Billboard (billboard.com). Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2012.
  13. ^ “43rd Grammy Awards – 2001”. Rockonthenet.com. ngày 21 tháng 2 năm 2001. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2011.
  14. ^ Sheffield, Rob (ngày 8 tháng 7 năm 1999). “On The 6 Album Review”. Rolling Stone. (rollingstone.com). Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2012.
  15. ^ “Jennifer Lopez Faces The Music”. Newsday. Long Island. ngày 2 tháng 6 năm 1999.
  16. ^ 'Millennium' Extends Reign On Billboard 200”. Billboard. ngày 10 tháng 6 năm 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2008.
  17. ^ “Lopez Scores Seven Billboard Video Awards Noms”. Billboard (billboard.com). Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2012.
  18. ^ a b c d e f g h i j k http://swisscharts.com/showitem.asp?interpret=Jennifer+Lopez&titel=On+The+6&cat=a
  19. ^ a b c http://www.billboard.com/#/album/jennifer-lopez/on-the-6/364560
  20. ^ “Musicline.de – Jennifer Lopez – On The 6”. Musicline.de (bằng tiếng Đức). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2008.
  21. ^ “Top 40 album- és válogatáslemez-lista – 1999. 38. hét”. Mahasz (bằng tiếng Hungary). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2008.
  22. ^ “On The 6 – Oricon”. Oricon (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2008.
  23. ^ “Chart Stats – Jennifer Lopez – On The 6”. Chart Stats. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2008.
  24. ^ "Gold & Platinum certification on Argentina" Lưu trữ 2011-05-31 tại Wayback Machine. Capif.org.ar (ngày 25 tháng 1 năm 2001). Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2011.
  25. ^ "ARIA Charts - Accreditations - 1999 Albums". Aria.com.au. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2011.
  26. ^ (tiếng Đức) "Gold & Platinum Database". Ifpi.at (ngày 30 tháng 3 năm 2011). Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2011.
  27. ^ "Canadian ''Gold and Platinum'' certifications" Lưu trữ 2012-03-28 tại Wayback Machine. Cria.ca. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2011.
  28. ^ "IFPI Platinum Europe Awards - 2002" Lưu trữ 2007-01-09 tại Wayback Machine. Ifpi.org (ngày 1 tháng 9 năm 2005). Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2011.
  29. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2011.
  30. ^ "2001 2X Gold Certification of On The 6". Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2011.
  31. ^ "France estimated album sales". Fanofmusic.free.fr. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2011.
  32. ^ "Gold/Platin Datenbank durchsuchen"[liên kết hỏng]
  33. ^ Bundesverband Musikindustrie: Gold/Platin. Musikindustrie.de (ngày 25 tháng 9 năm 1999). Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2011.
  34. ^ NVPI Database Lưu trữ 2009-06-18 tại Wayback Machine. Nvpi.nl (ngày 11 tháng 4 năm 2011). Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2011.
  35. ^ "New Zealand Top 50 Albums Chart" Lưu trữ 2012-05-25[Timestamp length] tại Archive.today Retrieved ngày 21 tháng 11 năm 1999.
  36. ^ “Związek Producentów Audio-Video:: Polish Society of the Phonographic Industry”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2011.
  37. ^ "Switzerland searchable database". Hitparade.ch. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2011.
  38. ^ "The BPI database". Bpi.co.uk. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2011.
  39. ^ "RIAA Gold and Platinum Certifications". Riaa.com. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2011.