Onibi ( (おに) () (Quỷ Hoả)?) là một loại ánh sáng ma khí quyển trong truyền thuyết của Nhật Bản. Theo quan niệm dân gian, họ là những linh hồn được sinh ra từ xác chết của con người và động vật. Họ cũng được cho là những người quá phẫn uất hóa thành lửa và xuất hiện. Ngoài ra, đôi khi các từ là "ma trơi" hay "đèn bí ngô" cũng được dịch sang tiếng Nhật là "onibi".[1]

Onibi (Bức tranh trong Wakan Sansai Zue)

Giả thuyết sửa

Đầu tiên, có thể thấy rằng các chi tiết về onibi từ lời khai của các nhân chứng không khớp với nhau, onibi có thể được coi là một thuật ngữ tập thể cho một số loại hiện tượng ánh sáng bí ẩn. Vì chúng thường xuyên xuất hiện trong những ngày mưa nên mặc dù chữ "bi" (lửa) có trong tên của nó, chúng được cho là khác với ngọn lửa do sự cháy và là một loại phát quang khác.[2] Cần phải nói là sự giải thích này đã được nêu ngay từ thời xưa, và những hiện tượng này không có gì là lạ.[3]

Ngay ở Trung Quốc vào thời đại TCN, người ta đã nói rằng "từ máu của người và động vật, phosphor và lửa oni (onibi) xuất hiện". Ký tự 燐 tại thời điểm đó ở Trung Quốc cũng có thể có nghĩa là sự phát quang đến từ đom đóm, hay từ hiệu ứng điện ma sát (triboelectricity trong vật lý, là sự nhiễm điện do tiếp xúc mà trên đó các vật liệu nhất định được tích điện sau khi chúng được tách ra khỏi một vật liệu khác mà chúng tiếp xúc), và không phải là một từ chỉ nguyên tố hóa học "phosphor".[4][5]

Trong khi đó, tại Nhật Bản, theo lời giải thích trong "Wakan Sansai Zue"; khi con người, ngựa và gia súc chết trong trận chiến và đổ máu trên mặt đất, onibi là thứ mà linh hồn của họ biến thành sau vài năm và tháng.[1]

Một thế kỷ kể từ "Wakan Sansai Zue" vào thế kỷ 19 và sau đó, tại Nhật Bản, onibi đã được đề cập tiếp theo trong tác phẩm văn học "Fushigi Benmō" của Shūkichi Arai, nói rằng "xác chết của bị chôn vùi có phosphor của họ biến thành onibi". Giải thích này được ủng hộ cho đến những năm 1920, các từ điển phổ thông trong thời kỳ Shōwa và sau đó cũng nói như vậy.[1]

Sankyō Kanda, một học giả sinh vật học nghiên cứu về động vật phát quang, đã tìm được phosphor vào năm 1696, và như ông biết rằng cơ thể con người cũng có phosphor, ở Nhật Bản, ký tự 燐 được dùng để chỉ nó, nói cách khác, có thể phỏng đoán rằng khi xác chết phân hủy, phosphor trong axit phosphoric sẽ phát ra ánh sáng. Theo cách này, nhiều onibi sẽ được giải thích, nhưng vẫn còn nhiều bằng chứng không phù hợp với lý thuyết về sự phát sáng từ phosphor.[6]

Khác sửa

Cũng có những truyền thuyết cho rằng onibi cũng bay lơ lửng giống như khi ma xuất hiện ở châu Âu, chẳng hạn như ở Đức vào ngày 2 tháng 11 trong Đêm linh hồn, một số lượng lớn onibi đã được trông thấy ở phía sau ngôi đền trong nghĩa địa. Đây được xem là bằng chứng cho thấy một hàng dài những hồn ma đã đến đền thờ, và những hồn ma của những đứa trẻ mặc đồ lót màu trắng, tham gia vào hàng của "Frau Holle (Mẹ Holle)".[7] Vì chúng đã xuất hiện trong một nghĩa địa, một lời giải thích đã được đưa ra rằng đó là do các khí phát quang từ sự phân hủy như đã nêu ở trên.[8]

Chú thích sửa

  1. ^ a b c 不知火・人魂・狐火. tr. 37–67頁.
  2. ^ 和漢三才図会. tr. 143–144頁.
  3. ^ 耳嚢. tr. 402頁.
  4. ^ 鈴木桃野 (1961). “反古のうらがき”. Trong 柴田宵曲編 (biên tập). 随筆辞典 第4巻 奇談異聞編. 東京堂. tr. 66–67頁.
  5. ^ 幻想世界の住人たち. IV. tr. 231–234頁.
  6. ^ 大槻義彦 (1991). 火の玉を見たか. ちくまプリマーブックス. 筑摩書房. tr. 181–193頁. ISBN 978-4-480-04154-8.
  7. ^ 那谷敏郎 『「魔」の世界』 講談社学術文庫 2003年 ISBN 4-06-159624-1 p.186
  8. ^ 草野巧 (1997). 幻想動物事典. Sự thật trong tưởng tượng. 新紀元社. tr. 69頁. ISBN 978-4-88317-283-2.
  • 神田左京 (1992). 不知火・人魂・狐火. 中公文庫. 中央公論新社. ISBN 978-4-12-201958-4.
  • 高田衛監修 稲田篤信・田中直日編 (1992). 鳥山石燕 画図百鬼夜行. 国書刊行会. ISBN 978-4-336-03386-4.
  • 多田克己 (1990). 幻想世界の住人たち. Sự thật trong tưởng tượng. IV. 新紀元社. ISBN 978-4-915146-44-2.
  • 寺島良安 (1987). 島田勇雄・竹島淳夫・樋口元巳訳注 (biên tập). 和漢三才図会. 東洋文庫. 8. 平凡社. ISBN 978-4-256-80476-6.
  • 根岸鎮衛 (1991). 長谷川強校注 (biên tập). 耳嚢. 岩波文庫. . 岩波書店. ISBN 978-4-00-302613-7.