Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi
Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi (1909–1988) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Qui Nhơn và Giáo phận Đà Nẵng. Trước đó, ông cũng là Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Bùi Chu. Khẩu hiệu Giám mục của ông là "Vâng lời Thầy, con thả lưới".
Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi | |
---|---|
Giám mục Tiên khởi Giáo phận Đà Nẵng (1963–1988) | |
Giáo hội | Công giáo Rôma |
Chức vụ chính yếu
| |
Giám mục chính tòa Giáo phận Đà Nẵng | |
Giáo tỉnh | Giáo tỉnh Huế |
Tòa | Giáo phận Đà Nẵng |
Bổ nhiệm | Ngày 18 tháng 1 năm 1963 |
Hết nhiệm | Ngày 21 tháng 1 năm 1988 |
Tiền nhiệm | Tiên khởi |
Kế nhiệm | Phanxicô Xaviê Nguyễn Quang Sách |
Giám mục chính tòa Giáo phận Qui Nhơn | |
Giáo tỉnh | Giáo tỉnh Huế |
Tòa | Giáo phận Qui Nhơn |
Bổ nhiệm | Ngày 24 tháng 11 năm 1960 |
Hết nhiệm | Ngày 18 tháng 1 năm 1963 |
Tiền nhiệm | Chức vụ được thiết lập![]() (Đại diện Tông tòa Qui Nhơn) |
Kế nhiệm | Đa Minh Hoàng Văn Đoàn |
Đại diện Tông tòa Địa phận Bùi Chu | |
Tòa | Hiệu tòa Sozopolis in Haemimonto |
Bổ nhiệm | Ngày 3 tháng 2 năm 1950 |
Hết nhiệm | Ngày 24 tháng 11 năm 1960 |
Tiền nhiệm | Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn |
Kế nhiệm | Chức vụ bị bãi bỏ![]() (Giám mục Chính tòa Bùi Chu) |
Giám quản Tông Tòa Địa phận Qui Nhơn | |
Hết nhiệm | Ngày 24 tháng 11 năm 1960 |
Tiền nhiệm | Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi |
Kế nhiệm | Chức vụ bị bãi bỏ![]() (Giám mục Chính tòa Qui Nhơn) |
Các chức khác | Giám mục Hiệu tòa Sozopolis in Haemimonto (1950–1960) |
Truyền chức
| |
Thụ phong | Ngày 23 tháng 12 năm 1933 |
Tấn phong | Ngày 4 tháng 8 năm 1950 |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Ngày 14 tháng 5 năm 1909 Ninh Bình, Việt Nam |
Mất | Ngày 21 tháng 1 năm 1988 Duy Xuyên, Quảng Nam |
Nơi an táng | Linh địa Trà Kiệu |
Khẩu hiệu | "Vâng lời Thầy con thả lưới" |
Cách xưng hô với Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi | |
---|---|
![]() | |
Danh hiệu | Đức Giám mục |
Trang trọng | Đức Giám mục, Đức Cha |
Thân mật | Cha |
Khẩu hiệu | "Vâng lời Thầy con thả lưới" |
Tòa | Giáo phận Đà Nẵng Giáo phận Qui Nhơn |
Là một người có quan điểm chống Cộng, ông đã có những hoạt động tôn giáo, chính trị phức tạp trong khuôn khổ Chiến tranh Đông Dương.
Thân thếSửa đổi
Ông sinh ngày 14 tháng 5 năm 1909 trong một gia đình Công giáo toàn tòng tại giáo xứ Tôn Đạo (nay thuộc địa bàn xã Ân Hòa huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình), thuộc Giáo phận Phát Diệm.
Năm 1920, ông được linh mục chính xứ Tôn Đạo là Clément Pléneau Kim (MEP) cho nhập trường Ba Làng (nay thuộc huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa). Năm 1921, ông được cho theo học tại Tiểu chủng viện Phúc Nhạc (Yên Khánh, Ninh Bình). Năm 1927, ông mãn Tiểu chủng viện và được Giám mục Alexandre Marcou Thành chọn đi tu học tại Trường Đại học Truyền giáo Rôma.
Ông thụ phong linh mục ngày 23 tháng 12 năm 1933. Sau đó, ông tiếp tục theo học tại Đại học Apollinaire và tốt nghiệp các văn bằng Tiến sĩ Triết học, Cử nhân Thần học và Cử nhân Giáo luật. Năm 1935, ông theo học khoa Luật tại Đại học Paris, Pháp.
Hoạt động tôn giáoSửa đổi
Năm 1936, ông quay trở về Việt Nam và nhận chức giáo sư Đại chủng viện Phát Diệm. Năm 1944, ông được cử làm Phó giám đốc của Đại chủng viện. Năm 1945, ông trở thành cố vấn của tân Giám mục Phát Diệm Lê Hữu Từ trong các vấn đề luật pháp và chính trị. Năm 1946, Giám mục Lê Hữu Từ bổ nhiệm ông làm Chánh án Tòa án Hôn phối Địa phận đồng thời cử ông vào Hội đồng Địa phận.
Năm 1947, ông được thăng làm Giám đốc Đại chủng viện Phát Diệm. Ngày 3 tháng 2 năm 1950, ông được Giáo hoàng Piô XII phong chức Giám mục hiệu tòa Sozopolitana ở Haemimonto và bổ nhiệm làm Giám quản Tông tòa Giáo phận Bùi Chu. Lễ thụ phong đã diễn ra vào ngày 4 tháng 8 năm 1950.
Xây dựng khu tự trị Bùi Chu - Phát DiệmSửa đổi
Dưới tác động từ thông điệp của Giáo hoàng Piô XI, cũng như Giám mục Lê Hữu Từ, ông kịch liệt chống đối những người Cộng sản. Năm 1946, ông được Hội đồng Địa phận Phát Diệm đề cử ra tranh cử Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được công bố trúng cử sau khi có thư xác nhận từ chính phủ tại Hà Nội nhưng ông quyết định khước từ.
Cùng với Giám mục Từ, ông đã có sự tham gia rất lớn trong việc hình thành những đội vũ trang Tự vệ Công giáo, xây dựng các giáo khu Phát Diệm, sau đó là Bùi Chu, trở thành những khu vực tự trị với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo linh mục Trần Tam Tỉnh, các lực lượng tự vệ này bị cho là "vượt xa tư cách gọi là chỉ để tự vệ khi bị cộng sản tấn công, bởi vì nó tung ra các hoạt động chủ yếu là hành quân càn quét, có khi bao trùm cả vùng, có lúc chỉ ở địa phương nhỏ." [1]
Năm 1950, người Pháp đã kiểm soát được phần lớn Đông Dương. Tuy nhiên, họ vẫn để giáo khu Bùi Chu – Phát Diệm được giữ quyền tự trị với những điều kiện thỏa hiệp không chống Pháp và nhận trang bị vũ khí của người Pháp để vũ trang cho giáo dân chống Việt Minh.
Giám mục tiên khởi Qui Nhơn, Đà NẵngSửa đổi
Năm 1954, quân Pháp thất bại trong trận Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneve được ký kết. Lo ngại trước viễn cảnh những người Cộng sản kiểm soát hoàn toàn miền Bắc, Giám mục Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi và nhiều chức sắc Công giáo khác đã lãnh đạo gần một triệu giáo dân di cư vào Nam.
Ngày 5 tháng 1 năm 1957, do sự đề cử của Khâm sứ Tòa Thánh Caprio tại Sài Gòn, ông được Tòa Thánh đặt làm Đặc ủy Tông tòa chuyên trách về Công giáo Tiến hành Việt Nam. Ngày 5 tháng 7 năm 1957, Tòa Thánh bổ nhiệm ông làm Giám quản Địa phận Qui Nhơn và ngày 24 tháng 11 năm 1960, trở thành Giám mục chính tòa Qui Nhơn khi giáo phận này được thành lập.
Ba năm sau, ngày 18 tháng 1 năm 1963, Giáo hoàng Gioan XXIII ký sắc lệnh tách Đà Nẵng ra khỏi Giáo phận Qui Nhơn và bổ nhiệm ông làm giám mục tiên khởi của giáo phận mới. Ông từng đảm trách vai trò Phó chủ tịch Hội đồng Giám mục miền Nam Việt Nam.
Quan điểm chính trịSửa đổi
Giám mục Chi thường bày tỏ sự ủng hộ đối với vấn đề quân đội Hoa Kỳ can thiệp trong Chiến tranh Việt Nam. Năm 1967, ông đã gửi thư phản đối Hồng y Cardin khi hồng y bày tỏ ý muốn yêu cầu phía Hoa Kỳ tôn trọng quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam và rút quân khỏi Việt Nam.[2] Trong một chuyến công du Hoa Kỳ tháng 12 năm 1969, ông tiếp tục bày tỏ sự ủng hộ đối với sách lược Việt Nam hóa chiến tranh của Nixon và khước từ sự liên hiệp với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[3]
Những năm cuối đờiSửa đổi
Sau năm 1975, ông vẫn tiếp tục cai quản giáo phận của mình. Giữa năm 1984, nhà nước Việt Nam trưng dụng nhiều cơ sở Công giáo trên Giáo phận Đà Nẵng, trong đó có Tòa Giám mục, Tiểu chủng viện Thánh Gioan, Nhà hưu dưỡng các linh mục. Ông phải chuyển đến lưu trú tại Nhà xứ Giáo xứ chính tòa một thời gian ngắn, rồi tháng 7 năm 1984, về an dưỡng tại Giáo xứ Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu cho tới khi qua đời. Việc cai quản giáo phận lại cho Giám mục phó Phanxicô Xaviê Nguyễn Quang Sách.[4]
Trong những năm cuối đời, sức khỏe của ông thất thường, có lần phải đưa về Đà Nẵng điều trị một thời gian. Đầu năm 1988, bệnh tình ông trở nặng và ông qua đời ngày 21 tháng 1 năm 1988, thọ 79 tuổi.[5]
Trong chúc thư của ông của đoạn: "Đối với những người thù ghét tôi, làm khổ tôi, nếu có, tôi không có buồn giận ai cả. Trái lại, tôi xin Chúa chúc lành cho họ. Họ làm như thế là làm cho tôi, vì tôi có dịp lập công, đền tội, nhất là trong những ngày sau hết đời tôi. Về nơi chôn cất thì ở đâu cũng được. Xác đất vật hèn: rồi chúng ta sẽ ra tro và bụi hết. Đến đây tôi xin để lại cho mọi người một ý tưởng sau hết mà tôi đã nói đi nói lại nhiều lần: "Vanitas Vanitatum et omnis vanitas: Phù vân nối tiếp phù vân, mọi sự đều là phù vân. Propter amare Deum et Illi Soli servire: trừ sự kính mến Đức Chúa Trời và làm tôi một mình Người"[6]
Thứ tự bổ nhiệm - tấn phong giám mụcSửa đổi
Chú thíchSửa đổi
- ^ Trần Tam Tỉnh. Thập Giá và Lưỡi Gươm. Chương II: Binh Thánh giá, nạn nhân của đạo quân Thánh giá. Mục 5: Cuộc thánh chiến
- ^ Trần Tam Tỉnh. Thập Giá và Lưỡi Gươm. Chương III: Giáo hội trong cơn bão bùng. Mục 6: Giáo hội đối diện với vấn đề hòa bình
- ^ Trần Tam Tỉnh. Thập Giá và Lưỡi Gươm. Chương III: Giáo hội trong cơn bão bùng. Mục 7: Nỗi hăm dọa của hòa bình
- ^ Lược sử Giáo phận Đà Nẵng, Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2012.
- ^ Linh mục Antôn Nguyễn Trường Thăng, Những ngày cuối đời của Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, Giám mục tiên khởi Giáo phận Đà Nẵng, tháng 1 năm 2009.
- ^ “DGM Phero Maria Pham Ngoc Chi”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2009.
Tham khảoSửa đổi
- Trần Tam Tỉnh. Thập giá và lưỡi gươm. Nhà xuất bản Trẻ, 1978.[nguồn không đáng tin?]
- Bức thư cuối cùng Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi gởi Giáo phận Đà Nẵng Lưu trữ 2009-08-27 tại Wayback Machine
- Đôi dòng tiểu sử của Đức cố Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, Linh mục Hoàng Xuân Nghiêm Grand Haven ngày 23-1-1988 Lưu trữ 2009-03-05 tại Wayback Machine
- Giám mục Phêrô Maria PHẠM NGỌC CHI (1909–1988) Chứng nhân của đức vâng phục[liên kết hỏng]
- Giám mục Phạm Ngọc Chi: vị mục tử mà cả triệu người Việt ghi ơn