Phục bích tại châu Âu

Phục bích (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay từng bị lật đổ bởi các cuộc cách mạngđảo chính trong nước, thậm chí phải lưu vong do nạn ngoại xâm nhưng sau đó khôi phục lại được ngôi vị của mình.

Dưới đây là bản danh sách liệt kê tất cả những cuộc phục bích trong lịch sử nhân loại trên phạm vi toàn châu Âu tự cổ chí kim, ngoài những vị vua chính thống được công nhận ở đây có bổ sung thêm những nhân vật có quyền lực tương đương quân chủ bao gồm: các vị vua tự xưng tồn tại ngắn ngủi, những vị quyền thần thế tập (Lãnh chúa, Mạc phủ), những vị đứng đầu một chính thể độc lập kiểu như Tiết độ sứ hay Thống đốc và quân phiệt cát cứ thời loạn hoặc những vị nhiếp chính cùng hoàng tử giám quốc.

Đế quốc Đông La Mã sửa

Nhà Leon sửa

 
Tarasicodissa

Năm 475, Verina quyết định lật đổ người em rể Tarasicodissa để đưa người tình là Patricius lên thay thế với sự giúp đỡ tận tình của người em trai Basiliscus, những kẻ chủ mưu đã cố ý gây ra một loạt vụ bạo loạn ở thủ đô để chống lại vị hoàng đế gốc Isauria.[1] Tarasicodissa dẫn vợ con trốn khỏi Constantinopolis trước tình thế hỗn loạn tràn lan trong kinh thành, Basiliscus phái IllusTrocundes cấp tốc truy đuổi Tarasicodissa khiến ông buộc phải cố thủ trong một pháo đài dọc đường, chẳng mấy chốc Illus đã mang quân tới bao vây phong tỏa.[2] Basiliscus vội vàng tự mình làm lễ đăng quang Hoàng đế Đông La Mã, rồi bí mật thủ tiêu người tình của Verina là Patricius nhằm loại trừ mối hiểm họa ảnh hưởng đến ngôi vị sau này.[3] Do Basiliscus tiến hành nhiều chính sách gây mất lòng dân nên Tarasicodissa đã sai người mang vàng bạc sang thuyết phục Illus đứng về phía mình, cả hai cùng tiến quân về Constantinopolis.[4] Basiliscus phái Armatus điểm binh nhằm bảo vệ kinh đô trước áp lực từ bên ngoài, vì quá ham tiền bạc nên chẳng mấy chốc Armatus đã bị mua chuộc, do vậy mà quân của Armatus đã làm lơ để mặc cho quân của Tarasicodissa tự do tiến vào Constantinopolis.[5] Năm 476, thấy binh lực hùng mạnh của Tarasicodissa, Viện Nguyên lão liền cử người lén mở cổng thành cho quân Isauria xông vào, điều đó đã giúp vị hoàng đế bị phế truất trở lại ngôi báu, Basiliscus đại bại đành quy hàng.[6]

Nhà Herakleios sửa

 
Justinianos II

Năm 695, dân chúng nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Leontios, strategos của Hellas và tôn ông lên làm Hoàng đế.[7] Sự kiện này này do hoàng đế Đông La Mã Justinianos II gây bất mãn tôn giáo liên tục, xung đột với giới quý tộc và sự không hài lòng về chính sách tái định cư của ông cuối cùng đã dồn thần dân của ông vào một cuộc bạo loạn.[8] Justinianos II bị loạn quân tiến vào kinh thành phế truất và cắt đứt mũi (sau này được thay thế bằng một bản sao bằng vàng của cái mũi nguyên gốc) nhằm ngăn ngừa phục vị, ông bị triều đình mới đày đến Cherson ở Krym. Leontios sau ba năm trị vì thì lần lượt bị người tiếm vị tiếp theo là Tiberios Apsimaros hạ bệ và tống giam.[9] Trong lúc sống lưu vong, Justinianos đã bắt đầu tính mưu kế và tập hợp những người ủng hộ nỗ lực giành lại ngôi vị hoàng đế, ông có nghĩa vụ phải tới Cherson và nhà chức trách quyết định trả ông trở về Constantinopolis vào năm 703.[10] Nhân dịp đó ông trốn khỏi Cherson và nhận được sự giúp đỡ từ Ibusirus Gliabanus (Busir Glavan), khả hãn của người Khazar đón tiếp cựu hoàng một cách nhiệt tình và còn gả cô em gái của mình làm vợ nữa.[11] Justinianos tiếp cận vua Tervel của Bulgaria, Tervel đồng ý chu cấp tất cả sự hỗ trợ quân sự cần thiết cho Justiniano phục vị để đổi lấy những cân nhắc về tài chính, phần thưởng là một vương miện của Caesar và Justinianos phải gả cô con gái Anastasia cho mình.[12] Năm 705, Justinianos dẫn đầu một đội quân tiến đến trước dãy tường thành của Constantinopolis. Ông đã lén xâm nhập qua một đường ống dẫn nước chưa sử dụng dưới chân tường thành phố, khuấy động phe cánh ủng hộ của mình và chia nhau nắm quyền kiểm soát thành phố trong một cuộc đảo chính lúc nửa đêm, như vậy Justinianos đã thành công và lại lên ngôi một lần nữa.[13]

 
Zoë Porphyrogenita

Nhà Makedonia sửa

Ngày 18/04/1042, Hoàng đế Mikhael V Kalaphates đã cho đày người mẹ nuôi và đồng trị vì Zoë Porphyrogenita, để rồi trở thành vị hoàng đế duy nhất nắm trọn quyền hành trong tay.[14] Việc công bố sự kiện này vào buổi sáng đã dẫn đến một cuộc nổi loạn của dân chúng ở kinh thành Constantinopolis, cung điện bị một đám đông vây quanh kêu gọi phục hồi địa vị của Zoë Porphyrogenita ngay lập tức.[15] Lời đề nghị này được đáp ứng, và Zoë Porphyrogenita quay trở lại trong vai trò đồng trị vì với người em gái Theodora vào hai ngày sau.[16] Theodora tuyên bố hoàng đế Mikhael V Kalaphates bị phế truất, và ông ta đã chạy sang tìm kiếm nơi chốn an toàn trong tu viện Stoudios.[17] Dù Mikhael đã tuyên thệ khoác áo thầy tu rồi thế mà vẫn bị triều đình bắt giam, chọc mù mắt và xử cung hình.[18]

Nhà Angelos sửa

 
Isaakios II Angelos

Năm 1195, Alexios Angelos, anh trai của Hoàng đế Isaakios II Angelos, lợi dụng quân chủ bận ra ngoài quân doanh đi săn, đã tự mình xưng đế và được binh lính công nhận với hiệu là Alexios III.[19] Isaakios II Angelos bị tân đế tập kích bất ngờ, bắt sống rồi sai người chọc mù mắt và đem giam tại Constantinopolis.[20] Sau tám năm bị giam cầm, Isaakios II Angelos được đem ra từ chốn ngục tù để lên ngôi một lần nữa sau khi các quốc gia phương Tây tiến hành một cuộc Thập tự chinh thứ tư và Alexios III Angelos cùng đám tùy tùng trốn khỏi kinh thành.[21] Những năm tháng tù đày đã làm suy nhược cả tâm trí và cơ thể của ông, và thái tử Alexios IV Angelos được đặt lên ngôi báu như một vị vua có năng lực trị quốc một năm sau đó.[22] Chẳng bao lâu, viên đại thần có thế lực trong triều là Alexios Doukas Mourtzouphlos đã lợi dụng cuộc bạo loạn tại thủ đô để bắt giam Alexios IV Angelos và tiếm vị lấy hiệu là Alexios V, do quá sốc trước sự việc như vậy, Isaakios II Angelos qua đời.[23]

 
Ioannes VI Kantakouzenos

Nhà Palaiologos sửa

Năm 1341, Hoàng đế Andronikos III Palaiologos qua đời, Ioannes VI Kantakouzenos bỗng được chỉ định làm nhiếp chính và người giám hộ của Ioannes V Palaiologos mới lên chín.[24] Nhân lúc Ioannes VI Kantakouzenos rời Constantinopolis đi thị sát xứ Morea, kẻ thù của ông đã nắm lấy cơ hội này mà tôn phò Ioannes V Palaiologos làm hoàng đế và ra lệnh giải tán quân đội trung thành với Ioannes VI Kantakouzenos.[25] Khi đó, tại DidymoteichonThracia, tin tức lan truyền đến nơi thì Ioannes VI Kantakouzenos cũng được binh sĩ ủng lập, kể từ đây đã đánh dấu sự bắt đầu của cuộc nội chiến giữa Ioannes Kantakouzenos và chế độ nhiếp chính ở Constantinopolis dẫn đầu bởi Anna xứ Savoy, Apokaukos và Thượng phụ.[26] Năm 1347, Ioannes Kantakouzenos tiến vào thủ đô, Ioannes V Palaiologos đành chịu lép vế và tuân theo điều kiện chia sẻ quyền lực của ông, như vậy cả hai cùng làm hoàng đế Đông La Mã.[27]

 
Ioannes V Palaiologos

Năm 1373, sultan của đế quốc OttomanMurad I buộc Ioannes V Palaiologos phải chịu sự thần phục như một chư hầu, con trai nhà vua là Andronikos IV Palaiologos liền liên minh với con trai của Murad là Savcı Bey dấy loạn chống lại cha mình nhưng thất bại nên bị nhốt trong .[28] Năm 1376, người Genova đã giúp Andronikos IV Palaiologos trốn khỏi nhà tù tới chỗ sultan Murad I và đồng ý trả lại Gallipoli để được sự ủng hộ của vua Thổ cho nỗ lực cướp ngôi của ông. Sultan cho chu cấp đầy đủ một lực lượng hỗn hợp gồm kỵ binh và bộ binh cho Andronikos để có thể nắm quyền kiểm soát Constantinopolis.[29] Sau khi chiếm được thành phố, Andronikos liền sai người bắt giam cả hai cha con Iohannes V và Manuel II. Năm 1379, hai cha con Ioannes và Manuel đã trốn đến chỗ sultan Murad và cũng nhờ sự hỗ trợ của Venezia nên họ đã lật đổ Andronikos vào cuối năm đó, người Venezia đã đưa Ioannes V Palaiologos phục vị cùng với Manuel II.[30] Andronikos bèn trốn sang Galata và ở đó cho đến năm 1381 thì một lần nữa được làm đồng hoàng đế và thừa kế ngôi vị bất chấp sự phản bội trước đây.[31] Năm 1390, Ioannes VII Palaiologos đã ra lệnh trục xuất ông nội Ioannes V Palaiologos và tự mình giữ vững ngôi vị được năm tháng, đến khi Ioannes V Palaiologos được đưa trở lại ngôi báu lần thứ ba bởi người con Manuel với sự giúp đỡ của nước Cộng hòa Venezia, Ioannes VII phải bỏ chạy sang nương náu Bayezid I của Đế quốc Ottoman.[32]

Ireland sửa

Liên hiệp Anh và Bắc Ireland sửa

Ba Lan - Litva sửa

Hy Lạp - Bắc Macedonia sửa

SerbiaMontenegro - Bosna và Hercegovina - Croatia sửa

Liên bang Nga - Belarus - Ukraina sửa

Cộng hòa Séc - Slovakia sửa

Nhà Přemyslid sửa

 
Boleslav III. Ryšavý

Năm 1002, một cuộc nổi dậy được tổ chức bởi các quý tộc của tộc Vršovci đối địch (cùng với con rể của Boleslaus III. Ryšavý) đã buộc Boleslav III. Ryšavý phải chạy trốn sang Đức, nơi ông được Margrave Henry I của Áo tiếp nhận.[33] Trong khi đó, công tước Ba Lan Bolesław I đã đưa người họ hàng của Boleslaus III. Ryšavý là Vladivoj trên ngai vàng của Bohemian, tuy nhiên, Vladivoj là một người nghiện rượu và chết trong vòng một năm.[34] Sau cái chết của Vladivoj vào năm 1003, các quý tộc ở vùng boho đã mời Boleslav III. Ryšavý quay về khôi phục quyền lực với sự hỗ trợ vũ trang từ Công tước Bolesław của Ba Lan.[35] Nhưng Boleslav III. Ryšavý đã sớm tự làm suy yếu vị trí của chính mình bằng cách ra lệnh tàn sát các quý tộc hàng đầu trong nước, những người sống sót sau vụ thảm sát đã bí mật gửi sứ giả đến Bolesław của Ba Lan và cầu xin ông này cứu họ.[36] Công tước Ba Lan sẵn sàng đồng ý bằng cách giả đò mời Boleslav III. Ryšavý đến thăm ông ta tại lâu đài riêng của mình ở Kraków, ở đó Boleslav III. Ryšavý bị mắc kẹt, bị chọc mù mắt và bị giam cầm cho đến chết.[37]

 
Přemysl Ottokar I
 
Jindřich Korutanský và anh trai Louis

Năm 1193, công tước Přemysl Ottokar I đã sớm bị lật đổ sau chưa đầy một năm được Hoàng đế La Mã Henry VI công nhận là người cai trị xứ Bohemia, vì ông tham gia một âm mưu của các hoàng tử Đức để hạ bệ triều đại Hohenstaufen.[38] Henry Bretislaus lên ngôi thay thế cho tới năm 1197 thì chết, các quý tộc ở vùng boho đã bầu Margrave Vladislaus Henry (anh trai Přemysl Ottokar I) làm người kế vị, tức Vladislaus III.[39] Nhưng Přemysl Ottokar I đã thỏa thuận với anh trai mình, công tước Vladislaus III, từ bỏ Bohemia cho ông ta và thỏa mãn với Moravia. Lợi dụng cuộc nội chiến ở Đức giữa người yêu sách Hohenstaufen Philip của Swabia và ứng cử viên Welf Otto IV, Ottokar I tuyên bố mình là vua xứ Bohemia lần thứ hai vào năm 1198, ông tự lên ngôi ở Mainz.[40] Danh hiệu này được hỗ trợ bởi Hohenstaufen Philip của Swabia, người cần sự hỗ trợ của quân đội Tiệp Khắc chống lại Otto.[41]

Năm 1306, công tước Jindřich Korutanský, vua của Bohemia đồng thời là Margrave của Moravia và cũng là vua của Ba Lan bị lật đổ.[42] Lúc đó, nhà cầm quyền người boho đã chuẩn bị cho một chiến dịch quân sự chống lại Ba Lan và bổ nhiệm nhiếp chính anh rể của mình, bởi sau vụ ám sát của Wenceslaus, Přemyslids đã tuyệt chủng trong dòng dõi nam và Jindřich Korutanský được bầu chọn bởi người quý tộc của người Hồi giáo chống lại ý chí của cựu vương đồng minh Albrecht I của Đức, người dự định sẽ cài đặt con trai cả của ông là Rudolf ở Habsburg trên ngai vàng của Bohemian.[43] Quân đội của vua Albert I ngay lập tức tấn công thành phố Bohemia, bao vây lâu đài Prague và phế truất Jindřich Korutanský, ông buộc phải nhượng bộ vì lực lượng vượt trội của họ.[44] Tuy nhiên, Rudolf của Habsburg không bao giờ được giới quý tộc Bohemian chấp nhận, và sau cái chết bất ngờ của ông này vào năm 1307, Jindřich Korutanský lại được bầu làm Vua xứ Bohemia.[45]

Nhà Luxemburg sửa

 
Sigismund von Luxemburg

Năm 1420, cuộc chiến tranh Hussite đã làm gián đoạn chức vụ của Sigismund von Luxemburg, giai đoạn này ở Bohemia không có vua.[46] Mãi đến năm 1436, ông mới chính thức tái đăng vị làm vua của xứ Bohemia.[47]

Đại công tước xứ Styria sửa

 
Ferdinand II

Năm 1619, Hoàng đế Matthias của Thánh chế La Mã qua đời, người kế vị của ông là Ferdinand II, Đại công tước xứ Styria. Mặc dù Ferdinand II trước đây đã được trao vương miện của quốc vương Styria, nhưng quốc hội đã từ chối công nhận tính hợp pháp của nó.[48] Lo lắng về cuộc xâm lược của gia đình Habsburg, Quốc hội Styria và các thành viên của Lãnh thổ Bohemian Crown đã họp tại Prague để tìm kiếm một liên minh, và cuộc họp đã giải quyết chống lại gia đình Habsburg. Kết quả, Đại hội đồng Bohemian đã tuyên bố tước quyền của vua Bohemia của Ferdinand II, cuộc chiến giữa vương quốc Bohemia và gia đình Habsburg là không thể tránh khỏi, và cuộc bầu cử của Đức đối với Ferdinand dự đoán rằng điều này sẽ dẫn đến một cuộc chiến kéo dài.[49] Ứng cử viên vua ban đầu cho Bohemians là Saxon, người sau đó đã từ chối Bohemian, điều này làm cho Frederick V trở thành một ứng cử viên nổi tiếng. Estates của tất cả các vùng đất của Vương miện Bohemian đã thành lập một liên minh vào ngày 31 tháng 7, họ hạ bệ Ferdinand II vào ngày 22 tháng 8 và bốn ngày sau, họ trao vương miện cho Frederick V.[50] Frederick V đã cố gắng thuyết phục các đại cử tri bầu Maximilian I của Bavaria làm Hoàng đế La Mã thần thánh mới, nhưng Maximilian I không chấp nhận ứng cử và Ferdinand II được nhất trí bầu làm hoàng đế.[51] Sở dĩ các điền trang đã chọn Frederick V vì ông này là lãnh đạo của Liên minh Tin lành, một liên minh quân sự do người cha Frederick IV thành lập và hy vọng sự hỗ trợ của bố vợ của Frederick IV, James VI của Scotland. Tuy nhiên, James VI đã phản đối việc tiếp quản Bohemia từ các đồng minh của Habsburg và Frederick V trong Liên minh Tin lành đã không hỗ trợ anh ta về mặt quân sự bằng cách ký Hiệp ước Ulm (1620).[52] Triều đại ngắn ngủi của Frederick V là vua xứ Bohemia đã kết thúc với thất bại tại trận chiến Núi Trắng vào ngày 8 tháng 11 năm 1620 - một năm bốn ngày sau khi đăng quang, Ferdinand II quay trở lại vừa làm hoàng đế La Mã thần thánh kiêm luôn cả đại công tước xứ Styria.[53]

Hungary sửa

Vương quốc Hungary:

 
Peter Orseolo

Năm 1041, bởi sự thiên vị của Peter Orseolo đối với các cận thần nước ngoài (ông ưa thích các cận thần người Đức và người Ý) đã gây ra cuộc nổi dậy kết thúc bằng việc ông bị lật đổ.[54] Ngoài ra, trước đó Peter Orseolo từng tịch thu tài sản của gì, nữ hoàng Jizera và đưa bà này vào tù, Jizera tìm kiếm sự giúp đỡ từ các lãnh chúa Hungary, người đổ lỗi cho một trong những mục yêu thích của Peter Orseolo vì những hành động sai trái của quốc vương và yêu cầu ông phải ra tòa xét xử. Khi nhà vua từ chối, các lãnh chúa đã tịch thu và sát hại cố vấn không được lòng dân của ông và thực hiện việc phế truất quốc vương.[55] Họ đã bầu một vị vua mới, Samuel Aba, một cháu trai khác của vua Stephen I. Sau khi bị trục xuất, Peter the Venetian trốn sang Áo, để tìm sự bảo vệ của anh rể của mình, Margrave Adalbert, ông đã tiếp cận Hoàng đế Henry III để được giúp đỡ chống lại Samuel Aba.[56] Henry III đã phát động cuộc thám hiểm đầu tiên chống lại Hungary vào năm 1042, lực lượng quân Áo đã tiến lên phía bắc sông Danube đến sông Garam. Hoàng đế đã lên kế hoạch khôi phục Peter Orseolo, nhưng người dân địa phương lại phản đối mạnh mẽ.[57] Peter Orseolo trở lại Hungary vào năm 1044, và được nhiều lãnh chúa Hungary tham gia trước sự lãnh đạo của ông. Trận chiến quyết định được chiến đấu vào ngày 5 tháng 6 tại Ménfő (gần Győr), nơi lực lượng của Samuel Aba bị đánh bại. Mặc dù Samuel Aba trốn thoát khỏi chiến trường, những người ủng hộ của Peter Orseolo đã truy bắt tới cùng và giết chết ông ta.[58]

 
Maria I

Năm 1385, nhiều nhà quý tộc ủng hộ Charles của Napoli, diễu hành về phía Buda. Nữ hoàng Maria và mẹ cô đã tiếp đón ông ta một cách lịch sự, Maria từ bỏ vương miện mà không gặp phải sự kháng cự nào đáng kể.[59] Vấn đề này khởi đầu từ lúc bà mới lên ngôi, mẹ của Maria, Elizabeth của Bosnia người đảm nhận vương quyền, đã loại bỏ các quý tộc Ba Lan khỏi lời thề trung thành với Maria để ủng hộ em gái của bà là Jadwiga. Ý tưởng về một nữ quân vương vẫn không được các nhà quý tộc Hungary ưa chuộng, phần lớn trong số họ coi người anh em họ xa của Maria, Charles III của Napoli, với tư cách là vị vua hợp pháp.[60] Để củng cố vị trí của Maria, mẹ của nữ hoàng muốn bà kết hôn với Louis, em trai của Charles VI của Pháp. Charles III của Napoli đến Dalmatia vào năm 1385, Sigismund của Luxembourg đã xâm chiếm Thượng Hungary (nay là Slovakia), buộc mẹ của nữ hoàng phải đồng ý cho mình kết hôn với Maria.[61] Tuy nhiên, họ không thể ngăn Charles vào Buda, sau khi Maria từ bỏ ngai vàng, Charles III của Napoli lên ngôi vua, nhưng ông đã bị sát hại trong sự xúi giục của mẹ Maria vào năm 1386.[62] Maria đã được phục hồi, mẹ của nữ hoàng đã thông báo cho công dân của Kőszeg rằng "Nữ hoàng Maria đã lấy lại được Vương miện Thánh".[63] Tuy nhiên, anh em nhà Horvat đã nổi dậy trong cuộc nổi loạn công khai thay mặt cho con trai của vị vua bị sát hại, Ladislaus của Naples. Chồng của Maria, Sigismund, và anh trai của ông, Wenceslaus, đã xâm chiếm Thượng Hungary vào tháng Tư. Sau nhiều tuần đàm phán, nữ hoàng thừa nhận vị trí của Sigismund là người phối ngẫu trong một hiệp ước đã được ký kết tại Győr vào đầu tháng 5. Họ cũng xác nhận việc thế chấp của Sigismund đối với các vùng đất phía tây Vág cho Jobst và Prokop của Moravia. Sau khi hiệp ước được ký kết, nữ hoàng trở lại Buda và Sigismund đã tới Bohemia.[64] Một lần, Elizabeth của Bosnia cùng Maria quyết định đến thăm các quận phía nam của vương quốc được kiểm soát bởi những người ủng hộ Ladislaus của Napoli, trên đường qua Đakovo, John Horvát đã phục kích tấn công bất ngờ và cuộc truy quét của họ tại Gorigate. Đoàn tùy tùng nhỏ của nữ hoàng đã chiến đấu với những kẻ tấn công, nhưng tất cả đều bị giết hoặc bị bắt, Elizabeth cầu xin những kẻ tấn công hãy tha mạng cho con gái mình, cả hai mẹ con đều bị nhốt trong tù, giam cầm tại lâu đài Gomnec, sau đó kéo đến Krupa, và từ đó đến lâu đài Novigrad trên bờ biển Adriatic.[65] Lợi dụng tình trạng hỗn loạn ở Hungary, quân đội Ba Lan đã xâm chiếm Lodomeria và Halych vào tháng Hai. Sigismund lên ngôi vua năm 1387 như đã quyết định rằng vương quốc không còn có thể không có một người cai trị hiệu quả, một trong những người ủng hộ ông, Ivan of Krk, đã bao vây lâu đài Novigrad với sự hỗ trợ của một hạm đội của Venice. Họ chiếm được lâu đài và giải phóng Maria, và từ đó bà lên ngôi lần thứ ba với tư cách đồng cai trị cùng chồng cho đến cuối đời.[66]

 
Peter IV

Bulgaria sửa

Đế quốc Bulgaria thứ hai:

Năm 1186, Hoàng đế Đông La Mã Isaakios II Angelos đã lãnh đạo một cuộc tấn công bất ngờ nhân lúc nhật thực ngày 21 tháng 4 và đánh bại đế chế thứ II của Bulgaria khi nhà nước này vừa mới thành lập không lâu, vua Peter IV cùng em trai là Ivan Asen I phải chạy trốn khỏi quê hương và băng qua Hạ lưu sông Danube, tìm kiếm sự hỗ trợ quân sự từ phía người Cumans.[67] Isaakios II nghĩ rằng chiến thắng của mình là quyết định và trở về Constantinople mà không đảm bảo sự bảo vệ của Paristrion, nhưng Peter IV đã được các thủ lĩnh người Cumans đem quân tới giúp trở lại ngai vàng năm 1187. Năm 1190, Peter IV trao ngai vàng cho em trai mình là Ivan Asen I.[68] Ivan Asen I tỏ ra là một dũng tướng thiện chiến khi đã đem quân đánh phá khắp nơi mở mang bờ cõi đế quốc Bulgaria, nhưng đến năm 1196 ông bị người anh em trong họ là Ivanko sát hại, Peter IV đã dẹp tan được Ivanko để lên ngôi vua Bulgaria lần thứ ba.[69] Tuy nhiên, cuộc phục bích lần này cũng kéo dài chưa đầy một năm, Peter IV đã bị sát hại "trong hoàn cảnh mơ hồ", ông đã "chạy qua thanh kiếm của một trong những người đồng hương của mình".[70]

Đan Mạch - Thụy Điển - Na Uy sửa

Albania sửa

 
Karl Topia

Vương công Albania:

Năm 1382, Balša Balšić đã chuẩn bị thực hiện một nỗ lực thứ tư để chinh phục Durrës, một trung tâm chiến lược và thương mại quan trọng, được cai trị bởi đối thủ của ông, Karl Thopia.[71] Năm 1383, Balša II bắt đầu một cuộc tấn công, bắt giữ Karl Thopia, và tự xưng là Công tước Dur Dur (Durrës).[72] Tuy Karl Thopia bị bắt làm tù binh nhưng trước đó từng cử sứ giả tới đế quốc Ottoman kêu gọi người Thổ Nhĩ Kỳ giúp đỡ, Murat I gửi một đội quân gồm 40.000 người do tướng Hajruddin Pasha lãnh đạo từ Macedonia kéo sang.[73] Năm 1385, ở vùng đồng bằng Savra giữa ElbasanLushnja, Balša II đã chiến đấu với người Thổ Nhĩ Kỳ và bị đánh bại và giết chết tại trận Savra, trên cánh đồng Saurian.[74] Người Ottoman đã chặt đầu Balša II và gửi nó như một món quà độc quyền cho Hajreddin Pasha, điều này đánh dấu sự kết thúc của sự cai trị của gia đình ông đối với Durazzo.[75] Karl Thopia được phóng thích, một lần nữa giành được quyền kiểm soát Durazzo, nhưng từ đó Albania thuộc phạm vi ảnh hưởng của đế quốc Ottoman.[76]

Các quốc gia Thập tự chinh sửa

Tây Ban Nha sửa

Bồ Đào Nha sửa

Vương quốc Bồ Đào Nha và Algarves sửa

Nhà Braganza:

  • Dona Maria II Maria da Glória Joana Carlota Leopoldina da Cruz Francisca Xavier de Paula Isidora Micaela Gabriela Rafaela Gonzaga (tại vị:18261828, phục vị:18341853)
 
Dona Maria II

Năm 1828, Miguel I tuyên bố cướp chính quyền từ tay cháu gái Dona Maria II.[77] Trận chiến kế vị của ông ta và anh trai Pedro I của Brazil và IV của Bồ Đào Nha kết thúc năm 1834 khiến Miguel I phải thoái vị và trả lại ngôi báu cho cháu gái Maria II, Miguel I lui về làm công tước Braganza cho đến hết đời.[78] Sự kiện trên khởi nguồn từ cuộc khủng hoảng kế vị sau khi vua John VI qua đời, nhà vua có một người con trưởng là Pedro I, nhưng Pedro I đã tuyên bố nền độc lập của Brazil vào năm 1822 với chính mình là Hoàng đế.[79] Nhà vua quá cố còn một người con trai thứ Miguel I, nhưng Miguel I đã bị đày đến Áo sau khi lãnh đạo một số cuộc cách mạng chống lại cha mình.[80] Trước khi qua đời, John VI đã đề cử con gái của mình, Infanta Isabel Maria, làm nhiếp chính cho đến khi "người thừa kế hợp pháp trở về vương quốc" - nhưng nhà vua lại không xác định được con trai mình là người thừa kế hợp pháp: Pedro I (Hoàng đế tự do của Brazil) hay Miguel I (hoàng tử lưu vong).[81] Hầu hết mọi người coi Pedro I là người thừa kế hợp pháp, nhưng dân chúng Brazil không muốn ông này hợp nhất ngai vàng của Bồ Đào Nha và Brazil.[82] Nhận thức được rằng những người ủng hộ em trai của mình đã sẵn sàng để đưa Miguel I trở lại và đưa ông này lên ngai vàng, Pedro I quyết định cho một lựa chọn đồng thuận hơn, ông ta sẽ từ bỏ yêu sách của mình cho ngai vàng Bồ Đào Nha để ủng hộ con gái Dona Maria II (lúc đó mới 7 tuổi), và rằng cô sẽ kết hôn với chú ruột Miguel I, người sẽ chấp nhận hiến pháp tự do và hành động như một nhiếp chính cho đến khi cháu gái của ông ta chiếm đa số.[83] Miguel I giả vờ chấp nhận, nhưng khi tới Bồ Đào Nha, ông ta ngay lập tức phế truất Dona Maria II và tự xưng là vua, bãi bỏ hiến pháp tự do trong quá trình này. Năm 1831, Pedro I đã từ bỏ vương miện của Brazil, truyền ngôi cho con trai Pedro II, và đến Châu Âu cùng với con gái Dona Maria II (bấy giờ đã lưu vong sang Brazil) để ủng hộ quyền của con gái ông với vương miện từ Bồ Đào Nha và gia nhập lực lượng trung thành với Dona Maria II ở Azores trong cuộc chiến chống lại Miguel I.[84] Pedro I lấy danh hiệu Công tước xứ Braganza và Nhiếp chính nhân danh con gái Dona Maria II, sau đó tiến hành cuộc bao vây Porto và một loạt các trận quyết chiến đẫm máu để kết cục giành lấy thắng lợi tuyệt đối.[85] Pedro I đến Lisbon và triệu tập con gái Dona Maria II từ Paris về nước, buộc Miguel I phải thoái vị.[86] Dona Maria II được khôi phục lại ngai vàng, và đã hủy bỏ hôn ước với chú ruột của mình, nhưng chưa được bao lâu, cha cô đã qua đời vì bệnh lao. Trước đây, Dona Maria II từng làm công tước xứ Braganza (18221826) và sau đó là công tước xứ Porto (18331838).[87]

Pháp sửa

Đại công quốc Luxembourg sửa

 
Charlotte

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đại gia đình nữ đại công tước Charlotte đã rời khỏi Luxembourg ngay trước khi quân đội Đức Quốc xã xuất hiện, tính trung lập của Luxembourg bị vi phạm nghiêm trọng vào ngày 9 tháng 5 năm 1940, trong khi Đại công tước và gia đình bà đang ở Colmar-Berg.[88] Hôm đó, bà gọi một cuộc họp bất thường của các bộ trưởng hàng đầu của mình và tất cả họ quyết định đặt mình dưới sự bảo vệ của Pháp, được Đại công tước mô tả là một quyết định khó khăn nhưng cần thiết.[89] Ban đầu, gia đình đã cư trú tại Château de Montastruc ở miền tây nam nước Pháp, nhưng sự xâm nhập nhanh chóng của lực lượng Đức vào Pháp sau đó là sự đầu hàng của Pháp vào tháng tới khiến chính phủ Pháp từ chối bất kỳ sự bảo đảm nào về an ninh cho chính phủ Luxembourg bị lưu đày, giấy phép đã được nhận để vượt qua Tây Ban Nha với điều kiện họ không dừng lại trên đường và Nữ công tước với các bộ trưởng của bà chuyển đến Bồ Đào Nha.[90] Vào ngày 29 tháng 8 năm 1940, Charlotte đã ở London - Anh Quốc, nơi bà bắt đầu thực hiện các chương trình phát sóng ủng hộ về quê hương của mình bằng cách sử dụng BBC.[91] Năm 1943, Charlotte và chính phủ Luxembourg đã tự thành lập tại Luân Đôn, các chương trình phát sóng của bà trở thành một đặc điểm thường xuyên hơn trong lịch trình của BBC, biến bà thành một trọng tâm cho các phong trào kháng chiến chống Đức cứu nước ở Luxembourg.[92] Năm 1945, Đức quốc xã đầu hàng quân đồng minh, Charlotte trở về tổ quốc dưới sự chào đón nhiệt liệt của quần chúng.[93]

Hà Lan sửa

Thân vương quốc Orange-Nassau sửa

 
Willem I

Năm 1806, công tước Willem I của Thân vương quốc Nassau-Orange-Fulda tiếp quản thân vương quốc Orange-Nassau sau khi cha của ông là William V qua đời.[94] Cũng năm đó, Napoléon I xâm chiếm Đức và chiến tranh nổ ra giữa Đế quốc Pháp và Phổ, Willem I đã ủng hộ người thân Phổ của mình, mặc dù trên danh nghĩa ông là một chư hầu của Pháp.[95] Ông nhận được chỉ huy của một sư đoàn Phổ tham gia Trận Jena mật Auerstedt, quân Phổ đã thua trận chiến đó và Willem I buộc phải đầu hàng.[96] Ông bị bắt làm tù binh chiến tranh, nhưng đã được tạm tha sớm, Napoleon I đã trừng phạt ông vì sự phản bội bằng cách không cho Willem I được phép tham gia chiến sự nữa.[97] Sau thất bại của Napoléon I tại Leipzig tháng 10 năm 1813, quân đội Pháp đã rút về nước từ khắp các chiến trường châu Âu.[98] Trong khoảng trống quyền lực tiếp theo, một số cựu chính trị gia Orangist và cựu người yêu nước đã thành lập một chính phủ lâm thời vào tháng 11 năm 1813.[99] Mặc dù một số lượng lớn các thành viên của chính phủ lâm thời đã giúp đuổi William V mười tám năm về trước, nhưng điều đó được cho là của ông con trai sẽ phải đứng đầu bất kỳ chế độ mới.[100] Họ cũng đồng ý rằng về lâu dài, người Hà Lan sẽ tự phục hồi Willem I, thay vì các cường quốc áp đặt ông lên đất nước.[101] Sau khi được Driemanschap (Triumvirate) mời vào ngày 30 tháng 11 năm 1813, Willem I rời khỏi chiến binh HMS và đáp xuống bãi biển Scheveningen, ông trở lại vị trí công tước Orange-Nassau lần thứ hai, đến năm 1815 ông chính thức được chính phủ lâm thời đề nghị lên làm vua Hà Lan.[102]

Vương quốc Hà Lan sửa

 
Wilhelmina Helena Pauline Maria

Năm 1940, phát xít Đức tấn công Hà Lan, nữ hoàng Wilhelmina Helena Pauline Maria và gia đình của bà chạy trốn khỏi The Hague, lên tàu HMS Hereward, một tàu khu trục của hải quân Anh, đi thẳng qua biển Bắc.[103] Tại Anh Quốc, Wilhelmina Helena Pauline Maria phụ trách chính phủ Hà Lan lưu vong, thiết lập một chuỗi chỉ huy và ngay lập tức truyền thông điệp đến người dân của mình.[104] Nhưng quan hệ giữa chính phủ Hà Lan và bà rất căng thẳng, với sự không thích lẫn nhau ngày càng tăng khi chiến tranh tiến triển, Wilhelmina Helena Pauline Maria tiếp tục là nhân vật nổi bật nhất, nhờ kinh nghiệm và kiến ​​thức của mình, bà được kính trọng trong số các nhà lãnh đạo của thế giới.[105] Thủ tướng Hà Lan Dirk Jan de Geer tin rằng quân Đồng minh sẽ không giành chiến thắng và có ý định mở các cuộc đàm phán với Đức vì một nền hòa bình riêng biệt, do đó Wilhelmina Helena Pauline Maria đã tìm cách loại bỏ ông này khỏi quyền lực, với sự giúp đỡ của một bộ trưởng, Pieter Gerbrandy, bà đã thành công.[106] Khi Hà Lan được giải phóng vào tháng 3 năm 1945, Wilhelmina Helena Pauline Maria trở về cố quốc nhưng đã thất vọng khi thấy các phe phái chính trị lên nắm quyền lực như trước chiến tranh, bà đưa ra quyết định không trở lại cung điện của mình mà chuyển đến một biệt thự ở The Hague.[107] Cùng thời gian đó, sức khỏe của Wilhelmina Helena Pauline Maria bắt đầu suy nhược, buộc bà phải tạm thời giao nhiệm vụ quân chủ cho con gái Juliana vào cuối năm 1947.[108] Nhưng đầu năm 1948, Juliana đã ép mẹ ở lại vì sự ổn định của quốc gia, thúc giục bà ở lại ngai vàng cho đến năm 1950 để có thể ăn lễ mừng thọ kim cương 70 tuổi của mình.[109]

 
Juliana

Wilhelmina Helena Pauline Maria từng có ý định làm như vậy, nhưng sự kiệt sức đã buộc bà phải từ bỏ nghĩa vụ quân chủ cho Juliana một lần nữa vào ngày 12 tháng 5 năm 1948, thời điểm này thật không may, vì nó đã khiến Juliana phải đối phó với cuộc bầu cử sớm do sự nhượng lại của các thuộc địa Indonesia.[110] Thất vọng vì trở lại chính trường trước chiến tranh và sự mất mát đang chờ xử lý của Indonesia, Wilhelmina Helena Pauline Maria thoái vị vào ngày 4 tháng 9 năm 1948.[111]

Năm 1947, Wilhelmina Helena Pauline Maria do sức khoẻ kém nên đã chuyển giao quyền lực chính trị cho con gái Juliana.[112] Tuy nhiên, Juliana vì sự ổn định quốc gia đã trả ngai vàng cho mẹ vào đầu năm 1948 và ép mẹ nên ở lại đến năm 1950,[113] nhưng Wilhelmina Helena Pauline Maria không thể trụ nổi trên cương vị quân chủ đành phải trao quyền cai trị Hà Lan cho con gái một lần nữa.[114]

Đức sửa

Ý sửa

Triều đại Bavaria của người Oliver sửa

 
Perctarit

Năm 662, hưởng ứng lời kêu gọi hỗ trợ của vua Godepert trong cuộc chiến với người đồng trị vì cũng là anh trai của ông ta, vua Perctarit, Grimoald đã trao danh hiệu Công tước Benevento cho con trai cả Romuald của mình.[115] Với sự giúp đỡ của Garibald, Công tước xứ Torino, Grimoald đã lật lọng bằng việc ám sát vua Godepert và buộc Perctarit phải chạy trốn, ông ta truy kích vợ và con trai của Perctarit đến Benevento rồi tự mình tiếp quản với tư cách là vua của những người Oliver.[116] Grimoald qua đời năm 671 sau khi ký kết một hiệp ước với Franks, con trai thứ của ông ta là Garibald lên ngôi, Garibald trị vì đất nước được ba tháng thì bị phế truất bởi Perctarit quay về phục bích.[117] Về phần Perctarit, sau khi bị trục xuất đầu tiên chạy sang Avar khagan Kakar, ông trở lại ngay sau đó để âm mưu chống lại Grimoald, nhưng cuộc chính biến thất bại nên đành trốn sang Francia.[118] Khi Grimoald kết thúc một hiệp ước với Franks, Perctarit đang chuẩn bị chạy trốn sang Anh, thì tin tức về cái chết của Grimoald đã đến.[119] Nhân cơ hội này Perctarit trở lại cố hương, ông hiệu triệu quần chúng ủng hộ mình, từ bỏ vị vua trẻ Garibald, kết quả ông giành thắng lợi tuyệt đối khiến Garibald buộc phải từ bỏ ngai vàng.[120]

Đại công quốc Toscana sửa

 
Ferdinando III
 
Leopold II

Năm 1801, khi hiệp ước Aranjuez được ký kết, Ferdinando III bị Napoleon đệ nhất buộc phải rời đến vương quốc Etruria, như là sự bồi thường đối với công tước xứ Parma của Nhà Bourbon, vốn bị truất quyền theo hiệp ước Lunéville trong cùng năm.[121] Thay vào đó, Ferdinando III được trao cho chức công tước và Tuyển hầu tước xứ Salzburg, vùng đất thế tục của Tổng giám mục xứ Salzburg.[122] Ông cũng được trao cho chức Tuyển hầu tước của Đế quốc La Mã Thần thánh vào năm 1802, nhưng sau khi Đế quốc La Mã Thần thánh tan rã vào năm 1806, danh hiệu "Tuyển hầu tước" cũng không còn nữa.[123] Năm 1805, Ferdinando III bị buộc phải rời khỏi Salzburg, theo các điều khoản của Hiệp ước Pressburg nhằm sáp nhập lãnh thổ của ông vào anh trai là Hoàng đế Francis II.[124] Thay vào đó, Ferdinand III được trao cho chức Công tước xứ Würzburg, một nhà nước mới được tạo ra cho ông từ Tổng giáo phận Würzburg, sau khi đế quốc La Mã thần thánh tan rã, ông nhận lãnh chức vụ mới là Đại Công tước xứ Würzburg. Năm 1814, Hoàng đế Napoléon I thất trận, Ferdinand III được phục chức Đại công tước xứ Toscana.[125]

Năm 1848, các cuộc cách mạng trong khuôn khổ Risorgimentos đã khiến Leopold II phải ban hành hiến pháp vào ngày 15 tháng 2.[126] Tuy nhiên, nó không đủ cho các lực lượng cực đoan trong dân chúng muốn xóa bỏ hoàn toàn sự cai trị của Áo.[127] Leopold II buộc rời khỏi đất nước vào tháng 2 năm 1849 và thành lập một chính phủ cộng hòa lâm thời, trong một thời gian ngắn liên minh với Cộng hòa La Mã cách mạng, đồng thời tồn tại ở các nước Giáo hoàng trong khoảng năm tháng.[128] Ngay trong tháng Tư, nỗ lực của một nền dân chủ cộng hòa ở Tuscany đã bị đàn áp bởi một cuộc phản công do quân đội Áo khởi xướng và Đại công tước Leopold II đã có thể trở lại.[129]

Vương quốc Napoli sửa

 
Ferdinand I

Nhà Bourbon:

Năm 1799, Ferdinand I không giữ được ngôi vua ở Napoli bởi sự thành lập nhà nước cách mạng Cộng hoà Parthenope.[130] Cũng trong năm đó, nhà nước này bị giải thể, Ferdinand I phục bích. Năm 1806, Napoleon Bonaparte của đệ nhất đế chế Pháp tấn công như vũ bão, Ferdinand I buộc lòng phải từ bỏ ngai vàng lần thứ hai.[131] Joseph Bonaparte được người Pháp đưa lên thay thế đến năm 1808, Joachim Murat nối tiếp quân vị cho đến khi Napoleon Bonaparte thất bại năm 1815, Ferdinand I quay trở lại vị trí vốn có của mình.[132]

Romania - Moldova sửa

Công quốc Moldavia sửa

Công quốc Românească sửa

Công quốc Românească và Công quốc Moldavia sửa

 
Michael I

Vương quốc România sửa

Năm 1930, Carol II từ nước ngoài trở về România, khi vua cha Ferdinand I mất năm 1927 ông tuy mang danh là hoàng thái tử nhưng không có ở nhà nên con trai ông Michael I được quyền kế vị ngai vàng ông nội.[133] Vì nhận thấy Michael I còn quá nhỏ, mới 9 tuổi chưa thể đủ năng lực đảm đang việc nước, một hội đồng nhiếp chính được thành lập bao gồm chú của ông là Hoàng tử Nicholas, Tổ phụ của Giáo hội Chính thống Rumani Miron Cristea và chủ tịch của Tòa án tối cao Gheorghe Buzdugan.[134] Do Hội đồng đã tỏ ra không hiệu quả nên Carol II được mời về nước tức vị, Michael I lui về Đông cung làm vương trữ.[135] Năm 1940, Carol II bị phế truất xuất bôn sang hải ngoại và Michael I một lần nữa trở thành vua, dưới chính phủ do nhà độc tài quân sự Ion Antonescu lãnh đạo, Romania đã trở thành liên kết với Đức Quốc xã.[136]

Xem thêm sửa

Tham khảo sửa

  1. ^ Williams and Friell, các trang 181–183
  2. ^ Rafal Kosinski, The Emperor Zeno: Religion and Politics, Historia Iagellonica, 2010, ISBN 8362261188
  3. ^ Stephen Williams, J.G.P. Friell, The Rome that did not fall: the survival of the East in the fifth century, CRC Press, 1999, ISBN 0-203-98231-2.
  4. ^ Hussey, Joan (1966). The Cambridge medieval history, Volume 4. Cambridge University Press. tr. 473.
  5. ^ Brian Croke, Dynasty and Ethnicity: Emperor Leo and the Eclipse of Aspar, Chiron 35 (2005), 147–203.
  6. ^ Elton, Hugh (ngày 10 tháng 6 năm 1998). “Flavius Basiliscus (AD 475–476)”. De Imperatoribus Romanis. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2006.
  7. ^ Theophanes, Chronographia.
  8. ^ Moore, R. Scott, "Justinian II (685–695 & 705–711 A.D.)", De Imperatoribus Romanis (1998)
  9. ^ Bury, J.B., A History of the Later Roman Empire from Arcadius to Irene, Vol. II, MacMillan & Co., 1889|pg. 354
  10. ^ Canduci, Alexander (2010), Triumph & Tragedy: The Rise and Fall of Rome's Immortal Emperors, Pier 9, ISBN 978-1-74196-598-8
  11. ^ Ostrogorsky, George; Hussey (trans.), Joan (1957), History of the Byzantine state, New Brunswick, N.J.: Rutgers University Press, ISBN 0-8135-0599-2
  12. ^ Norwich, John Julius (1990), Byzantium: The Early Centuries, Penguin, ISBN 0-14-011447-5
  13. ^ Kazhdan, Alexander biên tập (1991), Oxford Dictionary of Byzantium, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-504652-6
  14. ^ Jonathan Harris, Constantinople: Capital of Byzantium (Hambledon/Continuum, 2007). ISBN 978-1-84725-179-4
  15. ^ Kazhdan, Alexander biên tập (1991), Oxford Dictionary of Byzantium, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-504652-6
  16. ^ Zoe Porphyrogenita (wife of Romanus III, Constantine IX, and Michael IV) Lynda Garland University of New England, Australia. Copyright (C) 2006, Lynda Garland. This file may be copied on the condition that the entire contents, including the header and this copyright notice, remain intact.
  17. ^ Norwich, John Julius. (1993), Byzantium: The Apogee, Penguin, ISBN 0-14-011448-3
  18. ^ Warren Treadgold, A History of the Byzantine State and Society (Stanford University Press, 1997) ISBN 0-8047-2630-2
  19. ^ Harris, Jonathan, Byzantium and the Crusades (London: Bloomsbury, 2nd ed., 2014). ISBN 978-1-78093-767-0
  20. ^ The first wife of Isaac II is usually considered to be a Byzantine noblewoman of unknown name. In an Italian edition of the chronicle of Nicetas Choniates "Greatness and catastrophe of Byzantium" can be found an interesting note to the XIV Book. The names of Isaac II's first wife and eldest daughter, unknown to Byzantine sources, are found in an obituary in the Cathedral of Speyer (Germany) (the Pantheon of German kings) where it can be found the second daughter of Isaac II, Irene/Maria, wife of Philip of Suabia; in this text Irene/Maria is said daughter of Isaac and Irene (there is reference to the following article: R. Hiestand, Die erste Ehe Isaaks II. Angelos und seine Kinder, in Jahrbuch der Osterreichischen Byzantinisk, XLVII 1997 pp. 199–208). This Irene could be identified with the daughter of Georg Paleologus Ducas Comnenus; the son of this one, Andronicus Paleologus Comnenoducas is known as gambrox (gamma alpha mu beta rho o x) of Isaac II.
  21. ^ Harris, Jonathan, 'Collusion with the infidel as a pretext for military action against Byzantium', in Clash of Cultures: the Languages of Love and Hate, ed. Sarah Lambert and Helen Nicholson (Turnhout, 2012), pp. 99–117
  22. ^ Brand, C.M., Byzantium Confronts the West, 1180–1204 (Cambridge, MA, 1968)
  23. ^ Morris Bierbrier's "Medieval and royal genealogy update" column in the March 1999 issue of _Genealogists' Magazine_ gives a partial summary of the article by Hiestand; this is where I learned of its existence. Hiestand's article is of special interest because it explores the hypothesis that the first wife of Isaac II is a member of the Palaiologos family, perhaps the daughter of Georgios Palaiologos Komnenodoukas, megas hetaireiarches. This is based on a reference to Andronikos Palaiologos (probable son of Georgios) as beloved gambros (brother-in-law or son-in-law, though the former is more likely) of Emperor Isaac II in a document (from 1191, I think) printed in A. Papadopoulos- Kerameus's _Analekta..._, II, Petersburg, 1894, p. 362. Unfortunately, the genealogy of the early Palaiologoi is somewhat murky.
  24. ^ Norwich, John Julius. Byzantium: The Decline and Fall (New York: Alfred A. Knopf, 1996) p. 332
  25. ^ Bonarek, J.; Czekalski, T.; Sprawski, S.; Turlej, S. (2005), Historia Grecji (en polaco), Kraków: Wydawnictwo Literackie, ISBN 83-08-03816-6
  26. ^ Ostrogorski, G. (2008), Dzieje Bizancjum (en polaco), Warszawa: Państwowe Wydawnictwo Naukowe, ISBN 978-83-01-15268-0
  27. ^ Peter F. Sugar, Southeastern Europe Under Ottoman Rule, 1354-1804, (University of Washington Press, 1996), 15-16.
  28. ^ Harris, Jonathan, The End of Byzantium. Yale University Press, 2010. ISBN 978-0-300-11786-8
  29. ^ Nicol, Donald M., The Last Centuries of Byzantium. Cambridge University Press, 1993, 2nd edition. ISBN 0-521-43991-4
  30. ^ Alexander Vasiliev, History of the Byzantine Empire 324-1453. Madison: University of Wisconsin Press, 1952. ISBN 0299809269
  31. ^ Oxford Dictionary of Byzantium. Oxford University Press, 1991.
  32. ^ Küküllei János: Lajos király krónikája, Névtelen szerző: Geszta Lajos királyról; Osisris Kiadó, Budapest, 2000. (Millenniumi Magyar Történelem)
  33. ^ Francis Dvornik, Les Slaves. Histoire, civilisation de l'Antiquité aux débuts de l'époque contemporaine, Seuil, Paris, 1970 Jörg K. Hoensch, Histoire de la Bohême, Payot, Paris, 1995 (ISBN 2228889229)
  34. ^ Pavel Bělina, Petr Čornej et Jiří Pokorný, Histoire des Pays tchèques, Seuil, coll. « Points Histoire U », Paris, 1995 (ISBN 2020208105)
  35. ^ Nora Berend, Przemyslaw Urbanczyk, Przemislaw Wiszewski Central Europa in the High Middle Ages. Bohemia -Hungary and Poland c.900-c.1300 Cambridge University Press 2013 (ISBN 9780521786959).
  36. ^ Francis Dvornik, Les Slaves. Histoire, civilisation de l'Antiquité aux débuts de l'époque contemporaine, Seuil, Paris, 1970
  37. ^ Thietmar of Merseburg. Chronik. Neu übertragen und erläutet von W. Trillmich, B. 1957.
  38. ^ Wihoda, Martin (2015). Vladislaus Henry: The Formation of Moravian Identity. BRILL. ISBN 978-9004303836.
  39. ^ France, John (2006). The Crusades and the Expansion of Catholic Christendom, 1000–1714. Routledge. ISBN 978-1134196180.
  40. ^ Merinsky, Zdenek; Meznik, Jaroslav (1998). "The making of the Czech state: Bohemia and Moravia from the tenth to the fourteenth centuries". In Teich, Mikulas (ed.). Bohemia in History. Cambridge University Press.
  41. ^ Berend, Nora; Urbańczyk, Przemysław; Wiszewski, Przemysław (2013). Central Europe in the High Middle Ages: Bohemia, Hungary and Poland, c.900–c.1300. Cambridge University Press.
  42. ^ Anthony Stokvis, Manuel d'histoire, de généalogie et de chronologie de tous les États du globe, depuis les temps les plus reculés jusqu'à nos jours, préf. H. F. Wijnman, éditions Brill à Leyde 1889, réédition 1966, volume II, chapitre VI C 1., et tableau généalogique n° 11 « Généalogie des comtes de Goritz et de Tyrol ».
  43. ^ Pavel Bělina, Petr Čornej et Jiří Pokorný Histoire des Pays tchèques Points Histoire U 191 Éditions du Seuil Paris (1995) (ISBN 2020208105).
  44. ^ Jörg K.Hoensch Histoire de la Bohême Éditions Payot Paris (1995) (ISBN 2228889229)
  45. ^ Marek, Miroslav. “Genealogy of the House of Gorizia”. Genealogy.EU.
  46. ^ Hoensch, J. (1996). Kaiser Sigismund: Herrscher an der Schwelle zur Neuzeit, 1368–1437. Munich.
  47. ^ Bak, János (1998). "Hungary: Crown and Estates". In Christopher Almand. New Cambridge Medieval History vol. VII. c. 1415–c. 1500. Cambridge: CUP. pp. 707–27.
  48. ^ Pánek, Jaroslav (2011). "The Czech Estates in the Habsburg Monarchy (1526–1620)". In Pánek, Jaroslav; Tůma, Oldřich. A History of the Czech Lands. Charles University. pp. 191–229. ISBN 978-80-246-1645-2.
  49. ^ Bireley, Robert. Religion and Politics in the Age of the Counterreformation: Emperor Ferdinand II, William Lamormaini, SJ, and the Formation of the Imperial Policy (U Press of North Carolina, 2012).
  50. ^ Kontler, László (1999). Millennium in Central Europe: A History of Hungary. Atlantisz Publishing House. ISBN 963-9165-37-9.
  51. ^ MacCulloch, Diarmaid (2009). The Reformation: A History. Viking. ISBN 0-670-03296-4.
  52. ^ Whaley, Joachim (2012). Germany and the Holy Roman Empire, Volume I: Maximilian I to the Peace of Westphalia, 1493–1648. Oxford University Press. ISBN 978-0-19-968882-1.
  53. ^ Wilson, Peter Hamish (2009). The Thirty Years War: Europe's Tragedy. The Belknap Press of Harvard University Press. ISBN 978-0-674-03634-5.
  54. ^ Herman of Reichenau: Chronicle. In: Eleventh-century Germany: The Swabian Chronicles (selected sources translated and annotated with an introduction by I. S. Robinson) (2008); Manchester University Press; ISBN 978-0-7190-7734-0.
  55. ^ Cosmas of Prague: The Chronicle of the Czechs (Translated with an introduction and notes by Lisa Wolverton) (2009). The Catholic University of America Press. ISBN 978-0-8132-1570-9.
  56. ^ Makk, Ferenc (1993). Magyar külpolitika (896–1196) [Hungarian Foreign Policy (896–1196)] (in Hungarian). Szegedi Középkorász Műhely. ISBN 963-04-2913-6.
  57. ^ Simon of Kéza: The Deeds of the Hungarians (Edited and translated by László Veszprémy and Frank Schaer with a study by Jenő Szűcs) (1999). CEU Press. ISBN 963-9116-31-9.
  58. ^ Bartl, Július; Čičaj, Viliam; Kohútova, Mária; Letz, Róbert; Segeš, Vladimír; Škvarna, Dušan (2002). Slovak History: Chronology & Lexicon. Bolchazy-Carducci Publishers, Slovenské Pedegogické Nakladatel'stvo. ISBN 0-86516-444-4.
  59. ^ Solymosi, László; Körmendi, Adrienne (1981). "A középkori magyar állam virágzása és bukása, 1301–1506 [The Heyday and Fall of the Medieval Hungarian State, 1301–1526]". In Solymosi, László. Magyarország történeti kronológiája, I: a kezdetektől 1526-ig [Historical Chronology of Hungary, Volume I: From the Beginning to 1526] (in Hungarian). Akadémiai Kiadó. pp. 188–228. ISBN 963-05-2661-1.
  60. ^ Süttő, Szilárd (2002). "Mária". In Kristó, Gyula. Magyarország vegyes házi királyai [The Kings of Various Dynasties of Hungary] (in Hungarian). Szukits Könyvkiadó. pp. 67–76. ISBN 963-9441-58-9.
  61. ^ Tuchman, Barbara W. (1978). A Distant Mirror: The Calamitous 14th Century. Ballantine Books. ISBN 0-345-34957-1.
  62. ^ Csukovits, Enikő (2012). "Mária". In Gujdár, Noémi; Szatmáry, Nóra. Magyar királyok nagykönyve: Uralkodóink, kormányzóink és az erdélyi fejedelmek életének és tetteinek képes története [Encyclopedia of the Kings of Hungary: An Illustrated History of the Life and Deeds of Our Monarchs, Regents and the Princes of Transylvania] (in Hungarian). Reader's Digest. pp. 120–121. ISBN 978-963-289-214-6.
  63. ^ The Annals of Jan Długosz (An English abridgement by Maurice Michael, with commentary by Paul Smith) (1997). IM Publications. ISBN 1-901019-00-4.
  64. ^ Bak, János M. (1997). "Queens as Scapegoats in Medieval Hungary". In Duggan, Anne. Queens and Queenship in Medieval Europe. The Boydell Press. pp. 223–234. ISBN 0-85115-881-1.
  65. ^ Fine, John V. A (1994). The Late Medieval Balkans: A Critical Survey from the Late Twelfth Century to the Ottoman Conquest. The University of Michigan Press. ISBN 0-472-08260-4.
  66. ^ Michaud, Claude (2000). "The kingdoms of Central Europe in the fourteenth century". In Jones, Michael. The New Cambridge Medieval History, Volume VI: c. 1300-c. 1415. Cambridge University Press. pp. 735–763. ISBN 0-521-36290-3.
  67. ^ Dall'Aglio, Francesco (2013). "The interaction between nomadic and sedentary peoples on the Lower Danube: the Cumans and the "Second Bulgarian Empire"". In Curta, Florin; Maleon, Bogdan–Petru. The Steppe Lands and the World Beyond Them: Studies in Honor of Victor Spinei on his 70th Birthday. Editura Universității "Alexandru Ian Cuza". pp. 299–313. ISBN 978-973-703-933-0.
  68. ^ The History of the Expedition of the Emperor Frederick. In The Crusade of Frederick Barbarossa: The History of the Expedition of the Emperor Frederick and Related Texts (Translated by G. A. Loud) (2013). Ashgate Publishing. pp. 33–134. ISBN 9781472413963.
  69. ^ Andreev, Jordan; Milcho Lalkov (1996). pp. 146–147 The Bulgarian Khans and Tsars (in Bulgarian). Veliko Tarnovo: Abagar. ISBN 954-427-216-X
  70. ^ Fine, John V. A. (1994). The Late Medieval Balkans: A Critical Survey from the Late Twelfth Century to the Ottoman Conquest. The University of Michigan Press. ISBN 0-472-08260-4.
  71. ^ Edwin E. Jacques. The Albanians: an ethnic history from prehistoric times to the present. tr. 169. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2011.
  72. ^ M. Th. Houtsma. E. J. Brill's first encyclopaedia of Islam 1913-1936. tr. 456. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2011.
  73. ^ Fine, John V. A. (1994). The Late Medieval Balkans: A Critical Survey from the Late Twelfth Century to the Ottoman Conquest. University of Michigan Press. ISBN 0-472-08260-4.
  74. ^ Akademia e Shkencave e Shqipërisë; K. Prifti; Xh. Gjeçovi; M. Korkuti; G. Shpuza; S. Anamali; K. Biçoku; F. Duka; S. Islami; S. Naçi; F. Prendi; S. Pulaha; P. Xhufi (2002). Historia e Popullit Shqiptar. Tirana, Albania: Toena. tr. 309. ISBN 99927-1-622-3. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2012.
  75. ^ Jerzy Hauziński, Jan Leśny, Historia Albanii, Wrocław: Ossolineum 1992.
  76. ^ Fine, John Van Antwerp (1994), The Late Medieval Balkans: A Critical Survey from the Late Twelfth Century to the Ottoman Conquest, Ann Arbor: University of Michigan Press, ISBN 978-0-472-08260-5
  77. ^ «Maria lI.». Portugal - Dicionário Histórico, Corográfico, Heráldico, Biográfico, Bibliográfico, Numismático e Artístico (en portugués) IV. pp. 819-823. Consultado el 9 de diciembre de 2012.
  78. ^ Rocha, António Silva Lopes (1829). Unjust Proclamation of His Serene Highness The Infante Don Miguel as King of Portugal or Analysis and Juridical Refutation of the Act Passed by the Denominated Three States of the Kingdom of Portugal on the 11th of July, 1828; Dedicated to the Most High and Powerful, Dona Maria II. Queen Regnant of Portugal. London, England: R. Greenlaw.
  79. ^ Roderick J. Barman, Brazil: The Forging of a Nation, 1798–1852, Stanford, Californie, Stanford University Press, 1988 (ISBN 978-0-8047-1437-2)
  80. ^ Marie II da Gloria. In: Louis-Gabriel Michaud (Hrsg.): Biographie universelle ancienne et moderne, 2. Auflage, Bd. 26 (1860), S. 637–643. (Digitale Fassung)
  81. ^ Christian Rudel, Les Açores: Un archipel au cœur de l'Atlantique, Paris, Khartala éditions, 2002 (ISBN 978-2-84586-254-8)
  82. ^ Jeffrey D. Needell, The Party of Order: the Conservatives, the State, and Slavery in the Brazilian Monarchy, 1831–1871, Stanford, Californie, Stanford University Press, 2006 (ISBN 978-0-8047-5369-2)
  83. ^ Eugénio Francisco dos Santos, « Fruta fina em casca grossa », Revista de História da Biblioteca Nacional, vol. 74, 2011 (ISSN 1808-4001)
  84. ^ David Birmingham, A Concise History of Portugal, Cambridge, Cambridge University Press, 2003 (ISBN 0-521-53686-3)
  85. ^ Kendall W. Brown: Maria II da Gloria. In: Anne Commire (Hrsg.): Women in World History, Bd. 10 (2001), ISBN 0-7876-4069-7, S. 304–307.
  86. ^ António José Saraiva, The Marrano Factory: The Portuguese Inquisition and Its new Christians 1536–1765, Leiden, Pays-Bas, Brill, 2001 (ISBN 90-04-12080-7)
  87. ^ Мария II да Глория // Энциклопедический словарь Брокгауза и Ефрона: в 86 т. (82 т. и 4 доп.). — СПб., 1890—1907.
  88. ^ Chantal de Badts de Cugnac et Guy Coutant de Saisseval, Le Petit Gotha, Paris, Éditions Le Petit Gotha, coll. « Petit Gotha », 2002 (1re éd. 1993), 989 p. (ISBN 2-9507974-3-1)
  89. ^ André Linden, « Léif Lëtzebuerger… dir dohém a mir hei baussen… the radio speeches of Great-Duchess Charlotte in exile - In…ët wor alles net esou einfach », Questions sur le Luxembourg et la Deuxième Guerre mondiale, Luxembourg, 2002.
  90. ^ Léif Lëtzebuerger … D'Grande-Duchesse am Exil 1940–1945. Britisch-luxemburgischer Dokumentarfilm von Ray Tostevin, 2007
  91. ^ "Grand Duchess Charlotte's US Good-Will-Tours". Luxemburger Wort. ngày 14 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
  92. ^ "Commemoration to mark return of Luxembourg monarch". Luxemburger Wort. ngày 11 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
  93. ^ Charlotte's page on the official website of the Grand-Ducal House of Luxembourg Dernière mise à jour de cette page le: 24-09-2012 Accessibilité (W3C, WAI AA, WCAG 2.0)
  94. ^ Schama, Simon (1992). Patriots and Liberators. Revolution in the Netherlands 1780-1813. NewYork: Vintage Books. ISBN 0-679-72949-6.
  95. ^ Kossmann, E. H. The Low Countries 1780–1940 (1978) ch 3-4
  96. ^ (tiếng Hà Lan) Willem I, Koning (1772-1843) Lưu trữ 2014-04-26 tại Wayback Machine at the Dutch Royal House website
  97. ^ Bas, François de. Prins Frederik der Nederlanden en zijn tijd, Volume 2. H. A. M. Roelants, 1891. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2013.
  98. ^ By François de Bas, Prins Frederik der Nederlanden en zijn tijd (em neerlandês). [S.l.]: H. A. M. Roelants. 1 de janeiro de 1887
  99. ^ Genealogie ascendante jusqu'au quatrieme degre inclusivement de tous les Rois et Princes de maisons souveraines de l'Europe actuellement vivans [Genealogy up to the fourth degree inclusive of all the Kings and Princes of sovereign houses of Europe currently living] (bằng tiếng Pháp). Bourdeaux: Frederic Guillaume Birnstiel. 1768.
  100. ^ Вильгельм I, король нидерландский // Энциклопедический словарь Брокгауза и Ефрона: в 86 т. (82 т. и 4 доп.). — СПб., 1890—1907.
  101. ^ James, W. M. (2002). The Naval History of Great Britain: During the French Revolutionary and Napoleonic Wars. Vol. 2 1797-1799 . Stackpole books. tr. 309–310.
  102. ^ Caraway, David Todd. "Retreat from Liberalism: William I, Freedom of the Press, Political Asylum, and the Foreign Relations of the United Kingdom of the Netherlands, 1814-1818" PhD dissertation, U. of Delaware, 2003, 341pp. Abstract: Dissertation Abstracts International 2003, Vol. 64 Issue 3, p1030-1030
  103. ^ Hubbard, Robert H. (1977). Rideau Hall: An Illustrated History of Government House, Ottawa, from Victorian Times to the Present Day. Montreal: McGill-Queen's University Press. ISBN 978-0-7735-0310-6
  104. ^ Wilhelmina. (1959). Eenzaam maar niet alleen. Amsterdam: Ten Have Uitgevers Kok. ISBN 978-90-259-5146-7. Full text (pdf, 8 MB) online.
  105. ^ Queen Wilhelmina Of The Netherlands Broadcasts In Britain (1940), royal broadcast in English, on the British Pathé YouTube Channel
  106. ^ Tribute To Queen Wilhelmina (1962), Dutch newsreel on British Pathé YouTube Channel
  107. ^ “Post-war rehabilitation of the 1st Independent Polish Parachute Brigade”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  108. ^ Queen Wilhelmina State Park near Mena, Arkansas
  109. ^ (tiếng Anh) Royal House of the Netherlands and Grand-Ducal House of Luxembourg Lưu trữ 2009-04-09 tại Wayback Machine
  110. ^ Các tác phẩm của hoặc nói về Wilhelmina Helena Pauline Maria của Hà Lan tại Internet Archive
  111. ^ Hicks, Pamela. Daughter of Empire: My Life as a Mountbatten. Toronto Simon & Schuster. 2012.
  112. ^ Newspaper clippings about Juliana of the Netherlands in the 20th Century Press Archives of the German National Library of Economics (ZBW)
  113. ^ Netherlands Coronation (1948), newsreel on the British Pathé YouTube Channel
  114. ^ Queen Juliana (1909-2004) at the Dutch Royal House website
  115. ^ Brown, T. S. (1991). "Byzantine Italy c. 680 - c.876". In Rosamond McKitterick (ed.). The New Cambridge Medieval History: II. c. 700 - c. 900. Cambridge University Press. p. 321.
  116. ^ Gwatkin, H. M., Whitney, J. P. (ed) The Cambridge Medieval History: Volume II—The Rise of the Saracens and the Foundations of the Western Empire. Cambridge University Press, 1926.
  117. ^ Oman, Charles. The Dark Ages 476-918. London, 1914.
  118. ^ Paulus Diaconus, Historia Langobardorum (c. 790).
  119. ^ Gianluigi Barni La conquête de l'Italie par les Lombards VIe siècle les événements. Le Mémorial des Siècles Éditions Albin Michel Paris (1975) (ISBN 2226000712)
  120. ^ “German Tribes org Lombard Kings”. GermanTribes.org. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2010.
  121. ^ Marie-Nicolas Bouillet et Alexis Chassang (dir.), « Ferdinand III de Toscane » dans Dictionnaire universel d’histoire et de géographie, 1878 (lire sur Wikisource)
  122. ^ Genealogie ascendante jusqu'au quatrieme degre inclusivement de tous les Rois et Princes de maisons souveraines de l'Europe actuellement vivans [Genealogy up to the fourth degree inclusive of all the Kings and Princes of sovereign houses of Europe currently living] (bằng tiếng Pháp). Bourdeaux: Frederic Guillaume Birnstiel. 1768. tr. 109.
  123. ^ Chisholm, Hugh biên tập (1910). “Ferdinand III (1769–1824)”. Encyclopædia Britannica. 10. New York: Encyclopædia Britannica Co. tr. 268. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2011.
  124. ^ Gilman, Daniel Coit biên tập (1905). “Ferdinand III (1769–1824)”. The New International Encyclopædia. 7. New York: Dodd, Mead. tr. 539. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2011.
  125. ^ House of Habsburg, Tuscan Branch, family tree by Ferdinand Schevill in A Political History of Modern Europe (1909)
  126. ^ Marielisa Rossi: Bibliofilia, bibliografia e biblioteconomia alla corte dei Granduchi di Toscana Ferdinando III e Leopoldo II. Itinerari esplorativi fra cataloghi e documenti della Biblioteca Palatina lorenese. 2. Auflage, Manziana, Rom 1996. (Pubblicazioni. Ser. 1, Studi e testi, Band 2)
  127. ^ Richard Blaas: Leopold II, Erzherzog von Österreich In: Neue Deutsche Biographie (NDB). Band 14, Duncker & Humblot, Berlin 1985, ISBN 3-428-00195-8, S. 298 f. (Digitalisat).
  128. ^ Stefano Vitali: Fra Toscana e Boemia. Le carte di Ferdinando III e di Leopoldo II nell’Archivio centrale di Stato di Praga. Ministero per i beni e le attività culturali, Ufficio centrale per i beni archivistici, Rom 1999. (Pubblicazioni degli archivi di stato. Strumenti, Band 137)
  129. ^ Franz Pesendorfer: Il governo di famiglia in Toscana. Le memorie del granduca Leopoldo II. di Lorena (1824–1859). Sansoni, Florenz 1987. (Libro Toscano, autobiographischer Rechenschaftsbericht Leopolds, auf Italienisch geschrieben und 1987 erstmals veröffentlicht)
  130. ^ North, Jonathan (2018). Nelson at Naples, Revolution and Retribution in 1799. Stroud: Amberley. p. 304. ISBN 144567937X.
  131. ^ Davis, John (2006). Naples and Napoleon: Southern Italy and the European Revolutions, 1780-1860 Oxford University Press. ISBN 9780198207559.
  132. ^ Acton, Harold (1957). The Bourbons of Naples (1731-1825) (2009 ed.). London: Faber and Faber. p. 150. ISBN 9780571249015.
  133. ^ Weinberg, Gerhard The Foreign Policy of Hitler's Germany, New York: Enigma Books, 2013 page 251
  134. ^ "World War II – 60 Years After: Former Romanian Monarch Remembers Decision To Switch Sides", Radio Free Europe, ngày 6 tháng 5 năm 2005
  135. ^ (tiếng România) Costel Oprea, "Regele Mihai, retrocedare de un miliard de euro", România Liberă, ngày 27 tháng 4 năm 2007
  136. ^ Weinberg, Gerhard The Foreign Policy of Hitler's Germany, New York: Enigma Books, 2013 pages 252–253.