Phong trào #KuToo là một phong trào đang diễn ra ở Nhật Bản chống lại chính sách giày cao gót tại nơi làm việc.[1][2][3] Cái tên này ám chỉ đến phong trào Me Too và cách chơi chữ với kutsu (靴, "giày") và kutsū (苦痛, "đau đớn").[1]

Nguồn gốc và sự phát triển sửa

KuToo được Ishikawa Yumi, vốn là một nữ diễn viên, nhà văn tự do và nhân viên phòng tang lễ bán thời gian, khởi xướng vào năm 2019. Nhiều doanh nghiệp ở Nhật Bản yêu cầu nhân viên nữ phải đi giày cao gót cao từ 5 đến 7 cm, hoặc 1,9 đến 2,75 inch. Ishikawa thấy giày loại này là bất tiện và không thoải mái khi làm việc, và phàn nàn trên Twitter về việc mang chúng. Nhận xét của cô đã nhận được gần 30.000 lượt tweet lại và hơn 60.000 lượt thích, và những người phụ nữ khác đã chia sẻ những câu chuyện khó chịu của họ với giày cao gót, đăng những bức ảnh về bàn chân đầy máu và phồng rộp của họ.[4]

Ishikawa Yumi có hơn 150.000 chữ ký trong bản kiến ​​nghị cho phụ nữ không phải đi giày cao gót ở nơi làm việc. Chính phủ hiện phải xem xét vấn đề này do kiến ​​nghị vượt qua ngưỡng 100.000 chữ ký[5] Tuy nhiên, mặc dù nhiều người ủng hộ Ishikawa Yumi, ủy ban quốc hội vẫn tin rằng phụ nữ nên mặc quần áo "hợp lý" để làm việc. Do vậy, điều này trở thành một vấn đề và khởi đầu của Phong trào #KuToo.

Văn hóa doanh nghiệp Nhật Bản cũng cứng nhắc về trang phục của nam giới và gây áp lực cho nam công nhân viên ăn mặc theo những cách cụ thể, mặc dù không phải là cách khiến họ đau đớn và tổn thương về thể xác.

Bộ trưởng Bộ Y tế và Lao động Nhật Bản Nemoto Takumi tuyên bố rằng giày cao gót là cần thiết cho phụ nữ.[6][7]

Tháng 6 năm 2019, Ishikawa đã tổ chức một sự kiện ở Tokyo, để đàn ông thử giày cao gót và cố gắng đi đứng nhằm minh họa nỗi đau và sự khó chịu của đôi giày gây ra cho nhiều phụ nữ.[4] Ngoài những kỳ vọng khắt khe xung quanh giày dép chuyên nghiệp cho phụ nữ, nhiều công ty hiện đang yêu cầu phụ nữ không đeo mắt kính vì nó mang lại cho họ "cảm tưởng lạnh lùng"[8]. Quy định trang phục này củng cố quan điểm của phong trào #KuToo rằng các quy định trang phục chuyên nghiệp nghiêm ngặt dành cho phụ nữ tồn tại như một thông lệ phân biệt đối xử. Ishikawa Yumi cũng đứng đằng sau vụ việc và lên tiếng chống lại bản chất phân biệt đối xử của những quy định trang phục chuyên nghiệp mới này.[9] Phụ nữ ở Nhật Bản đang lên tiếng về lệnh cấm này, với hashtag "mắt kính bị cấm" lưu hành trên phương tiện truyền thông xã hội và nhiều người yêu cầu các quan chức xem xét lại các quy định này.[10]

Kể từ đó, Ishikawa Yumi đã mở rộng phong trào từ giày sang một phạm vi rộng hơn về các vấn đề quyền phụ nữ ở Nhật Bản. Ishikawa thường lên tiếng chống lại sự bất bình đẳng xã hội ở Nhật Bản như văn hóa đổ lỗi dâm đãng và sự kỳ vọng của xã hội muốn phụ nữ giữ im lặng, ngăn họ lên tiếng chống lại sự bất công.[11]

Văn hóa Nhật Bản cau mày khi thể hiện cảm xúc ra bên ngoài và trong cuốn sách mới phát hành của mình, cô nói về việc tức giận khiến ai đó không thể tha thứ và cuồng loạn. Ishikawa bày tỏ cảm giác tốt như thế nào khi đi ngược lại sự mong đợi này và tức giận.[11]

Mối quan tâm về sức khỏe sửa

Phụ nữ đang so sánh giày cao gót với tục bó chân vì nhiều phụ nữ đang làm việc nhiều giờ với bàn chân ở một vị trí đặc biệt gây khó chịu cho đôi chân của họ. Nhiều phụ nữ cũng phàn nàn rằng nó đang can thiệp vào công việc do đau ở chân, chẳng hạn như phồng rộp và biến dạng ngón chân cái.[12]

Giày cao gót gây ra nhiều rủi ro về thể chất bên cạnh phồng rộp và chảy máu. Giày cao gót có thể tạo ra hiệu ứng tiêu cực lâu dài khi mang trong sử dụng liên tục trên hai inch, giống như phụ nữ ở Nhật Bản sẽ mang. Việc đi giày cao gót liên tục có thể gây ra các vấn đề về lưng dưới, hông và đầu gối, có thể dẫn đến thoái hóa khớp. Đây là khi sụn giữa xương mòn đi và khiến xương bị mài mòn cùng với chuyển động. Mang giày liên tục cũng có thể rút ngắn gân Achilles, cũng như thắt chặt và định hình lại cơ bắp chân để điều chỉnh theo áp lực.[13]

Phân biệt giới tính và quan điểm truyền thống của Nhật Bản sửa

Sau khi tweet của Ishikawa Yumi phàn nàn về việc phải đi giày cao gót, tweet của cô lại được sự công khai từ các nước quốc tế hơn là ở Nhật. Nhật Bản coi phong trào #KuToo là mối quan tâm về sức khỏe nhiều hơn là coi đó là sự phân biệt đối xử giữa các giới trong khi nhiều quốc gia khác đang nhìn vào phong trào #KuToo theo cách đó.[5]

Sự tiến triển của phong trào #KuToo vẫn còn chậm do những trở ngại khác nhau được củng cố bởi quan điểm lâu dài về giới tính ở Nhật Bản và kỳ vọng về sự phù hợp xã hội. Quan điểm của Nhật Bản về vai trò giới tính vẫn mang nặng tính truyền thống, với phụ nữ được phân công về mặt xã hội trong các nhiệm vụ chăm sóc trẻ em và trong nước, bất kể cô ấy có việc làm được trả lương hay không.[14] Diễn đàn Kinh tế Thế giới xếp hạng Nhật Bản đứng thứ 121 trên 153 quốc gia về khoảng cách giới tính vào năm 2020[15], có nghĩa là những kỳ vọng xã hội của phụ nữ vẫn còn thấp và tình trạng phân biệt đối xử ngay cả ở quốc gia phát triển cao này.

Những quan điểm về giới tính cũng được củng cố bởi ngành truyền hình và quảng cáo Nhật Bản, điều này tiếp tục định hình nhận thức của Nhật Bản về thực tế này.[16] Trong các đoạn phim quảng cáo, giới truyền thông liên quan đến phụ nữ nhiều hơn thường tập trung vào mỹ phẩm và quần áo, trong khi đó "nam giới chiếm ưu thế hơn phụ nữ ở các hạng mục 'kinh doanh cấp cao' và 'chuyên nghiệp' khoảng từ 2 đến 1."[17]

Phong trào #KuToo xuất hiện ngay sau khi một trong những trường y khoa được đánh giá cao nhất tại Nhật Bản, Đại học Y Tokyo, hiện đang thừa nhận các ứng viên nữ có điểm thi đầu vào đã giảm xuống để giảm số lượng sinh viên nữ.[18] Nó cũng xuất hiện sau khi nhà báo Itō Shiori lên tiếng chống lại tình trạng quấy rối tình dục, khiến cô trở thành người đầu tiên ở nước này làm điều đó. Itō phải đối mặt với một lượng lớn phản ứng dữ dội vì đã lên tiếng, bao gồm cả việc bị gọi là một sự bối rối và hành xử vô đạo đức nhằm thăng tiến sự nghiệp. Các mối đe dọa trở nên nặng nề đến nỗi cuối cùng buộc cô phải chuyển đến sống tại Vương quốc Anh.[14] [19]

Tuy nhiên, Abenomics, "nơi mà phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động được khuyến khích"[20] đang trở nên chính thống hơn và được hỗ trợ bởi chính sách của người Nhật. Những nỗ lực này, trong khi tạo ra sự khác biệt trong việc cân bằng lĩnh vực chuyên môn cho phụ nữ, không giải quyết được những kỳ vọng xã hội sâu xa phải thay đổi để phong trào KuToo mở rộng và thành công với việc nâng cao quyền của phụ nữ tại nơi làm việc.

Xem thêm sửa

Tham khảo sửa

  1. ^ a b Weaver, Matthew; France-Presse, Agence (ngày 3 tháng 6 năm 2019). “#KuToo: Japanese women submit anti-high heels petition”. The Guardian. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2019.
  2. ^ “Japanese minister responds to #KuToo campaign by saying high heels...”. Reuters (bằng tiếng Anh). ngày 6 tháng 6 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2019.
  3. ^ “#KuToo drive a hit but Japan minister says high heels 'necessary'. www.aljazeera.com. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2019.
  4. ^ a b Rachelle, Vivian (ngày 28 tháng 8 năm 2019). “What Is the #KuToo Movement?”. JSTOR Daily (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2019.
  5. ^ a b “#KuToo no more! Japanese women take stand against high heels”. Reuters (bằng tiếng Anh). ngày 6 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2019.
  6. ^ “Japanese official calls high-heel mandates for women at work "necessary and appropriate," dismissing "KuToo" movement”. CBS News. ngày 6 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2019.
  7. ^ Brennan, Summer (ngày 6 tháng 6 năm 2019). “Listen to Japan's women: high heels need kicking out of the workplace”. The Guardian. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2019.
  8. ^ “https://www.bbc.com/news/business-50342714”. BBC News. ngày 8 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020. Liên kết ngoài trong |title= (trợ giúp)
  9. ^ JIJI, AFP (ngày 4 tháng 12 năm 2019). “Anti-high heels campaigner steps up to battle Japan's 'glasses ban'. The Japan Times Online. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  10. ^ [編集部], 竹下 郁子 [編集部] (ngày 24 tháng 10 năm 2019). “Women who are prohibited from wearing glasses at work. From "whole mannequin" acceptance to nurses”. Business Insider. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  11. ^ a b Inagaki, Kana (ngày 5 tháng 12 năm 2019). 'I was unashamed': Yumi Ishikawa on fighting sexism in Japan”. Financial Times. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  12. ^ Rachelle, Vivian. “Japan's #KuToo movement is fighting back against regressive dress codes for women”. Quartz (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2019.
  13. ^ “HIGH HEELS: THE HEALTH RISKS”. WV Ortho Center. ngày 4 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  14. ^ a b “A TOKYO MEDICAL SCHOOL RIGGED EXAM RESULTS TO FAVOUR MEN. BUT JAPAN'S SEXISM PROBLEM RUNS EVEN DEEPER”. Amnesty International. ngày 29 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  15. ^ The Global Gender Gap Index 2020 rankings (PDF). World Economic Forum. 2020. tr. 9.
  16. ^ Yamamoto, M; Ran, W (2014). “Should Men Work Outside and Women Stay Home? Revisiting the Cultivation of Gender-Role Attitudes in Japan”. Mass Communication and Society. 17 (g): 920–942. doi:10.1080/15205436.2013.860989.
  17. ^ Cooper-Chen, A; Leung, E; Cho, S.H. (1996). “Sex roles in East Asian magazine advertising”. Gazette (Leiden, Netherlands). 55 (3): 207–223. doi:10.1177/001654929605500304.
  18. ^ Meixler, Eli (ngày 8 tháng 11 năm 2018). “A Japanese Medical School Will Admit Dozens of Women Rejected by a Sexist Exam”. Time.com. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  19. ^ Rich, Motoko (ngày 9 tháng 12 năm 2017). “She Broke Japan's Silence on Rape”. NY Times. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  20. ^ HAYASHIKAWA, MAKI; MANNS, MARK (ngày 4 tháng 7 năm 2019). “Japan's systemic barriers to gender equality”. Japan Times. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.