Podocnemididae là một họ rùa cổ bên có nguồn gốc từ Madagascar và bắc Nam Mỹ. Các loài rùa họ này thường được gọi là "rùa cổ bên" tương quan trực tiếp đến việc chúng không có khả năng rụt đầu về phía sau vào trong mai mà phải ẩn nó sang một bên. Ngoài ra, xương chậu của chúng[1] được hợp nhất với vỏ để ngăn chặn bất kỳ chuyển động nào của xương chậu. Do xương chậu bất động nên chúng không thể đi lại trên cạn, điều này đòi hỏi khả năng vận động của xương chậu nhiều hơn.[2] Vì lý do này, chúng thích hợp nhất với việc bơi lội và do đó chúng sống trong những môi trường nước. Tất cả những loài rùa này đều là động vật thủy sinh[3], sinh sống trong những con suối và những nơi có nước chảy khác. Vỏ của chúng được sắp xếp hợp lý để hỗ trợ cho việc bơi lội.

Podocnemididae
Thời điểm hóa thạch: Cuối kỷ Phấn Trắng - Gần đây, 84.9–0 triệu năm trước đây
Rùa sông đốm vàng (Podocnemis unifilis)
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Reptilia
Bộ (ordo)Testudines
Phân bộ (subordo)Pleurodira
Họ (familia)Podocnemididae
Cope, 1868
Các chi
Danh pháp đồng nghĩa
Podocnemidinae

Phân loại và hệ thống sửa

Podocnemididae đã được sáp xác nhập vào họ Pelomedusidae có họ hàng gần thành phân họ Podocnemidinae. Một số tác giả vẫn duy trì sự phân loại này,[4] nhưng ở đây tốt hơn là nên giữ họ riêng biệt trong liên họ Pelomedusoidea.

Họ Podocnemididae chỉ có ba chi còn sinh tồn, hai trong số đó là chi đơn loài:

Họ này cũng có một vài chi tiền sử, bao gồm Albertwoodemys, Bairdemys, Bauruemys, Brontochelys, Caninemys, Cordichelys, Dacquemys, Lapparentemys, Latentemys, Lemurchelys, Mogharemys, Neochelys, Papoulemys, Peiropemys, Pricemys, Shweboemys, Stereogenys, Turkanemys, Cambaremys, Carbonemys, Cerrejonemys, Kenyemys, Roxochelys and Stupendemys.[5] Stupendemys sống khoảng 5,5 triệu năm về trước ở miền bắc Nam Mỹ, và là loài rùa nước ngọt lớn nhất và là trung tâm nhận biết nhiều nhất cho đến nay.

Chú thích sửa

  1. ^ Wise, Taylor B.; Stayton, C. Tristan (ngày 1 tháng 3 năm 2017). “Side-necked Versus Hidden-necked: A Comparison of Shell Morphology Between Pleurodiran and Cryptodiran Turtles”. Herpetologica. 73 (1): 18. doi:10.1655/HERPETOLOGICA-D-15-00038. ISSN 0018-0831.
  2. ^ Sánchez-Villagra, Marcelo R.; Winkler, Jasmin D.; Wurst, Linda (ngày 19 tháng 4 năm 2007). “Autopodial skeleton evolution in side-necked turtles (Pleurodira): Pleurodire autopodial evolution”. Acta Zoologica (bằng tiếng Anh). 88 (3): 199–209. doi:10.1111/j.1463-6395.2007.00267.x.
  3. ^ Mayerl, Christopher J.; Brainerd, Elizabeth L.; Blob, Richard W. (ngày 23 tháng 6 năm 2016). “Pelvic girdle mobility of cryptodire and pleurodire turtles during walking and swimming”. The Journal of Experimental Biology. 219 (17): 2650–2658. doi:10.1242/jeb.141622. ISSN 0022-0949. PMID 27340204.
  4. ^ Fritz Jürgen Obst (1998). “Pelomedusinae”. Trong H. G. Cogger; R. G. Zweifel (biên tập). Encyclopedia of Reptiles and Amphibians. San Diego: Academic Press. tr. 112–113. ISBN 0-12-178560-2.
  5. ^ Eugene S. Gaffney; Peter A. Meylan; Roger C. Wood; Elwyn Simons; Diogenes De Almeida Campos (2011). “Evolution of the Side-Necked Turtles: The Family Podocnemididae”. Bulletin of the American Museum of Natural History. 350: 1–237. doi:10.1206/350.1.

Liên kết ngoài sửa

Bản mẫu:Pleurodira