Pomacanthus navarchus

loài cá

Pomacanthus navarchus là một loài cá biển thuộc chi Pomacanthus trong họ Cá bướm gai. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1831.

Pomacanthus navarchus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Pomacanthidae
Chi (genus)Pomacanthus
Loài (species)P. navarchus
Danh pháp hai phần
Pomacanthus navarchus
(Cuvier, 1831)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Holacanthus navarchus Cuvier, 1831

Từ nguyên sửa

Từ định danh của loài bắt nguồn từ tiếng Latinhnavarch (có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đạiναύαρχος, "thủ lĩnh của những con tàu"), dựa theo Admiral, mang nghĩa là "đô đốc", tên gọi bằng tiếng Hà Lan do Louis Renard (k. 16781746) đặt cho loài cá thần tiên này vào năm 1719[2].

Không rõ hàm ý mà cái tên này đề cập đến, có lẽ nhắc đến dải sọc xanh lam băng ngang qua nắp mang, được ví như dây đeo vai màu xanh lam của một đô đốc[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống sửa

P. navarchus có phạm vi phân bố rộng rãi trên hầu hết vùng biển các nước Đông Nam Á (trừ phần lớn Biển Đôngvịnh Thái Lan đổ ra eo biển Karimata), và từ Papua New Guinea trải dài về phía đông đến đảo Yap (Liên bang Micronesia), Palau, quần đảo Solomon, Nouvelle-Calédonie; giới hạn ở phía nam đến rạn san hô Great Barrier và những bãi cạn, rạn san hô vòng ngoài khơi Tây Úc[1][3].

P. navarchus sống tập trung gần các rạn san hô viền bờ và trong các đầm phá ở độ sâu đến 40 m[1].

Mô tả sửa

P. navarchus có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là 28 cm[3]. Thân, vây lưng, vây đuôi có màu vàng da cam; vảy hai bên thân lốm đốm xanh lam. Từ trán, một dải màu xanh lam thẫm viền xanh óng trải dài xuống mắt, hẹp dần về phía bụng; một dải xanh tương tự ở thân sau kéo dài xuống dưới bụng; hợp với dải ở đầu thành một dải xanh ở bụng, lan rộng sang vây ngực, vây bụng và vây hậu môn. Trừ vây ngực, các vây còn lại đều có viền màu xanh óng. Cá con có màu xanh thẫm (gần như đen) với các dải sọc cong màu trắng và xanh óng; vây đuôi trong suốt[4][5].

Số gai vây lưng: 13–14; Số tia vây ở vây lưng: 17–18; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 16–18[4].

Sinh thái sửa

Thức ăn chủ yếu của P. navarchushải miên (bọt biển) và hải tiêu[3]. Chúng thường sống đơn độc và ghép cặp khi bước vào giai đoạn sinh sản[1]. Những cá thể lai giữa P. navarchusPomacanthus xanthometopon đã được ghi nhận tại Indonesia, Philippines và bang Queensland, Úc[6].

P. navarchus là một loài thường được xuất khẩu trong ngành buôn bán cá cảnh[1].

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c d e R. Pyle; L. A. Rocha; M. T. Craig (2010). Pomacanthus navarchus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T165867A6152605. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T165867A6152605.en. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ a b Scharpf, C.; Lazara, K. J. (2021). “Order ACANTHURIFORMES (part 1)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2021.
  3. ^ a b c Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2021). Pomacanthus navarchus trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2021.
  4. ^ a b John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 244. ISBN 978-0824818951.
  5. ^ Joe Shields (biên tập). Pomacanthus navarchus Pomacanthidae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2021.
  6. ^ Federico Vitelli (2019). “Causes and possible consequences of hybridisation in angelfishes at Christmas Island”: tr.11. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)