Robert Anthony Rodriguez (/rɒˈdrɡɛz/; sinh ngày 20 tháng 6 năm 1968)[2]nhà làm phim người Mỹ. Anh đã quay, sản xuất và ghi hình nhiều phim của mình ở Mexico và tại tiểu bang quê nhà, Texas. Rodriguez đã đạo diễn bộ phim hành động El Mariachi năm 1992, bộ phim thành công về mặt thương mại sau khi thu về 2 triệu đô la so với chi phí sản xuất 7.000 đô la. Bộ phim có hai phần tiếp theo là Kẻ liều mạngMột thời ở Mexico trong loạt phim Mexico Trilogy. Anh cũng đạo diễn bộ phim Từ hoàng hôn tới hừng đông vào năm 1996 và phát triển thành loạt phim chuyển thể trên truyền hình (2014-2016).[3] Rodriguez đồng đạo diễn bộ phim tội phạm kinh dị Sin City năm 2005 (chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên) và phần tiếp theo năm 2014, Sin City: A Dame to Kill For. Rodriguez cũng đạo diễn các bộ phim Điệp Viên Nhí, The Facemony, The Adventures of Sharkboy and Lavagirl in 3-D, Hành Tinh Bạo Lực, Tập đoàn Sát ThủAlita: Thiên Thần Chiến Binh. Anh là bạn và là cộng tác viên của nhà làm phim Quentin Tarantino, người sáng lập công ty A Band Apart, trong đó Rodriguez là nhân viên. Vào tháng 12 năm 2013, Rodriguez đã ra mắt kênh truyền hình cáp của riêng mình, El Rey Network.[4]

Robert Anthony Rodriguez
Rodriguez tại buổi giới thiệu Alita tháng 2 năm 2019
SinhRobert Anthony Rodríguez
20 tháng 6, 1968 (56 tuổi)[1]
San Antonio, Texas, Hoa Kỳ
Học vịSt. Anthony Catholic School
St. Anthony Catholic High School
Trường lớpCollege of Communication, Đại học Texas tại Austin
Nghề nghiệpNhà làm phim, Đạo diễn
Năm hoạt động1991–nay
Phối ngẫu
Elizabeth Avellán (cưới 1990–2006)
Con cái5
Người thânPatricia Vonne (chị)
Angela Lanza (em)
Danny Trejo (em họ)
WebsiteTroublemaker Studios

Tiểu sử

sửa

Thời niên thiếu

sửa

Rodríguez sinh ở San Antonio, Texas, con trai của cha mẹ người Mexico, Rebecca (nhũ danh Villegas), một y tá, và Cecilio G. Rodríguez, một nhân viên bán hàng.[5][6] Anh bắt đầu để ý đến phim ảnh ở tuổi 11, khi cha anh mua một chiếc VCR đi kèm với máy ảnh.[7]

Trong khi tham dự trường trung học St. Anthony Catholic ở San Antonio, Rodríguez được giao nhiệm vụ quay lại các trận bóng đá ở trường. Theo người chị, anh đã bị đuổi vì quay những thước phim theo phong cách điện ảnh, chỉ quay quả bóng bay thay vì quay toàn bộ vở kịch. Ở trường, anh gặp Carlos Gallardo; cả hai đều quay phim suốt tới khi lên đại học.

Rodriguez đã đến College of Communication ở Đại học Texas tại Austin, nơi anh cũng phát triển niềm đam mê với phim hoạt hình. Không đủ điểm cao để được vào chương trình quay phim của trường, anh đã tự tạo ra một bộ truyện tranh mang tên Los Hooligans. Nhiều nhân vật trong truyện được dựa trên chị em của Rodriguez. Truyện tranh đã bán chạy 3 năm trên tờ báo sinh viên The Daily Texan, sau đó Rodriguez tiếp tục làm những bộ phim ngắn.

Rodríguez đã quay những bộ phim hành động, kinh dị ngắn trên hai chiếc VCR. Cuối năm 1990, anh đã tham gia một cuộc thi quay phim ở trường đại học. Ở giai đoạn đầu, phong cách thương hiệu của Rodriguez đã bắt đầu xuất hiện: cắt, phóng to và chuyển cảnh.

Bedhead (1991), một bộ phim anh sản xuất, được công nhận trong Liên hoan phim Black Maria. Bộ phim được chọn bởi Người quản lý phim Sally Berger cho ngày kỷ niệm 20 năm của Black Maria tại MoMA năm 2006.

Trưởng thành

sửa

Rodríguez cho rằng vào tháng 4 năm 2006, anh và vợ Elizabeth Avellán, có năm người con (Rocket, Racer, Rebel, Rogue và Rhiannon), hai người đã ly thân sau 16 năm kết hôn.[8] Avellán vẫn tiếp tục sản xuất hầu hết các bộ phim của cô kể từ khi chia tay, nhưng mối quan hệ của họ vẫn tiếp tục

Vào tháng 3 năm 2014, Rodriguez đã trưng bày bộ sưu tập truyện tranh gốc Frank Frazetta của mình tại Austin, Texas, trong lễ hội SXSW.[9]

Sự nghiệp

sửa

Bộ phim ngắn "Bedhead" đã thu hút nhiều sự chú ý để khuyến khích anh ta tiếp tục thử sức các bộ phim sau với vai trò là nhà làm phim.[10] Anh quay cảnh hành động El Mariachi (1992) bằng tiếng Tây Ban Nha; với chi phí làm khoảng 7.000 đô la, số tiền này được quyên góp từ người bạn của anh là Adrian Kano và từ các khoản thanh toán.[11] Rodriguez đã giành giải thưởng Khán giả cho El Mariachi tại Liên hoan phim Sundance năm 1993.[11] Rodríguez đã mô tả kinh nghiệm của anh khi thực hiện bộ phim trong cuốn sách Rebel Without a crew (1995).[12]

Giải thưởng và đề cử

sửa
Năm Giải thưởng Hạng mục Phim Kết quả
1993 Deauville American Film Festival Award Audience Award El Mariachi Đoạt giải
Critics Award Đề cử
Sundance Film Festival Award Audience Award for Best Dramatic Film Đoạt giải
Grand Jury Prize Đề cử
1994 Independent Spirit Award Best Director Đề cử
Best First Feature

Cùng với Carlos Gallardo

style="background: #99FF99; color: black; vertical-align: middle; text-align: center; " class="yes table-yes2"|Đoạt giải
1996 Saturn Award Best Director Từ hoàng hôn tới hừng đông Đề cử
Silver Scream Award Best Film Đoạt giải
1999 ALMA Award Outstanding Latino Director of a Feature Film The Faculty Đề cử
2002 Outstanding Director in a Motion Picture Điệp Viên Nhí Đoạt giải
Outstanding Screenplay (Original or Adapted) Đề cử
2003 ASCAP Award Top Box Office Films
Cùng với John Debney
Điệp Viên Nhí 2: Đảo Của Những Giấc Mơ Đã Mất Đoạt giải
Imagen Award Best Director (Foreign or Domestic) – Film Đoạt giải
2004 ASCAP Award Top Box Office Films Spy Kids 3-D: Game Over Đoạt giải
Golden Satellite Award Best Original Song Một thời ở Mexico Đoạt giải
2005 Cannes Film Festival Award Technical Grand Prize Sin City Đoạt giải
Palme d'O

Cùng với Frank Miller

style="background: #FDD; color: black; vertical-align: middle; text-align: center; " class="no table-no2"|Đề cử
Phoenix Film Critics Society Award Best Editing Đoạt giải
Satellite Award Outstanding Cinematography Đề cử
Outstanding Film Editing Đề cử
Outstanding Original Score Đề cử
Outstanding Sound (Mixing & Editing)

Cùng với
John Pritchett, Sergio Reyes, Paula Fairfield, William Jacobs và Carla Murray

style="background: #FDD; color: black; vertical-align: middle; text-align: center; " class="no table-no2"|Đề cử
Outstanding Visual Effects Đề cử
2006 ALMA Award Outstanding Director of a Motion Picture Đề cử
ASCAP Award Top Box Office Films

Cùng với John Debney

style="background: #99FF99; color: black; vertical-align: middle; text-align: center; " class="yes table-yes2"|Đoạt giải
Czech Lion Best Foreign Language Film (Nejlepší zahraniční film)
Cùng với Frank Miller & Quentin Tarantino
Đề cử
Imagen Award Best Director Đề cử
The Adventures of Sharkboy and Lavagirl in 3-D Đề cử
2007 Austin Film Critics Association Award Austin Film Award

Cùng với
Quentin Tarantino

Dòng Máu Sát Thủ Đề cử
ShoWest Award Director of the Year

Cùng với Quentin Tarantino

style="background: #99FF99; color: black; vertical-align: middle; text-align: center; " class="yes table-yes2"|Đoạt giải

Tham khảo

sửa
  1. ^ “Monitor”. Entertainment Weekly (1264). 21 tháng 3 năm 2013. tr. 26.
  2. ^ Booth Thomas, Cathy (13 tháng 8 năm 2005). “Robert Rodriguez – TIME”. TIME. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2013. Truy cập 17 tháng 2 năm 2019. Đã bỏ qua tham số không rõ |= (trợ giúp)
  3. ^ The Deadline Team. “El Rey's 'From Dusk Till Dawn' Rounds Out Cast, by THE DEADLINE TEAM”. Deadline. Truy cập 20 tháng 2 năm 2014.
  4. ^ Craig Hunter. “T2's Robert Patrick & More Join 'From Dusk Till Dawn: The Series'. Thehollywoodnews.com. Truy cập 20 tháng 2 năm 2019.
  5. ^ “Robert Rodriguez Biography (1968?-)”. Filmreferecom.com. Truy cập 17 tháng 2 năm 2019.
  6. ^ Marvis, Barbara J. (1998). Robert Rodriguez. Mitchell Lane. tr. 5. ISBN 1883845483.
  7. ^ "Robert Rodriguez Biography" Lưu trữ 2019-01-07 tại Wayback Machine Friday Moviez Entertainment Guaranteed
  8. ^ “Daily Dish: Rodríguez Splits With Wife”. SFGate. 7 tháng 4 năm 2006. Truy cập 21 tháng 2 năm 2019.
  9. ^ Casey, Dan (6 tháng 3 năm 2014). “Exclusive: Robert Rodriguez Opening Museum of Frank Frazetta Art at SXSW”. Nerdist. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2014. Truy cập 22 tháng 2 năm 2019.
  10. ^ “Bedhead (1991)”. Brian's Robert Rodriguez Page (Geocities). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2019.
  11. ^ a b A FILM FOR A SONG: Robert Rodriguez’s Garage Movie.
  12. ^ Robert Rodriguez (1995). Rebel Without a Crew. New York: Dutton Books, Plume. tr. 6–11. OCLC 155845528. Truy cập 21 tháng 2 năm 2019.

Liên kết ngoài

sửa