Roberto Mancini
Roberto Mancini (phát âm tiếng Ý: [roˈbɛrto manˈtʃiːni], sinh ngày 27 Tháng 11 năm 1964) là một huấn luyện viên bóng đá người Ý, trước đây là cầu thủ quốc tế và hiện tại huấn luyện viên của đội tuyển Ý. Mancini khi là cầu thủ được biết đến nhiều nhất thời gian chơi tại Sampdoria, nơi anh đã chơi hơn 550 trận đấu, và đã giúp họ giành chiến thắng vô địch Serie A, bốn Coppa Italia và Cup Winners Cup, trong khi tham gia đội tuyển Ý 36 lần. Là một cầu thủ, ông đã phát triển một thiên hướng trở thành một huấn luyện viên trong tương lai và thường chỉ đạo đội bóng bán thời gian và cuối cùng trở thành trợ lý cho Sven-Göran Eriksson tại Lazio vào lúc hoàng hôn của sự nghiệp cầu thủ của mình. Sau khi nghỉ nghiệp cầu thủ, Mancini đã bắt tay vào một sự nghiệp quản lý và khá thành công. Một chuyên gia đấu cúp, Mancini chưa bao giờ thất bại tại một trận bán kết của bất kỳ cuộc cạnh tranh cup quốc gia lớn, từ 2002 đến 2011. Ông cũng hướng dẫn các câu lạc bộ Ý nơi ông quản lý tham gia liên tiếp 5 trận chung kết Coppa Italia 2004-2008, với Lazio một lần trong năm 2004 và với Inter trong bốn mùa giải sau đó.
![]() Mancini năm 2010 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Roberto Mancini | ||
Ngày sinh | 27 tháng 11, 1964 | ||
Nơi sinh | Jesi, Ý | ||
Chiều cao | 1,79 m (5 ft 10 1⁄2 in) | ||
Vị trí | Tiền vệ / Tiền đạo | ||
Thông tin về CLB | |||
Đội hiện nay | Ý (huấn luyện viên) | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST† | (BT)† |
1981–1982 | Bologna F.C. 1909 | 30 | (9) |
1982–1997 | U.C. Sampdoria | 424 | (132) |
1997–2001 | S.S. Lazio | 87 | (15) |
2001 | → Leicester City (mượn) | 4 | (0) |
Tổng cộng | 545 | (156) | |
Đội tuyển quốc gia | |||
1982–1986 | U-21 Ý | 26 | (9) |
1984–1994 | Ý | 36 | (4) |
Các đội đã huấn luyện | |||
2001–2002 | A.C.F. Fiorentina | ||
2002–2004 | S.S. Lazio | ||
2004–2008 | Inter Milan | ||
2009–2013 | Manchester City | ||
2013–2014 | Galatasaray | ||
2014–2016 | Inter Milan | ||
2017–2018 | F.K. Zenit Sankt Peterburg | ||
2018– | Ý | ||
* Chỉ tính số trận và số bàn thắng ghi được ở giải vô địch quốc gia |
Sau trận thua Wigan 0-1 tại chung kết FA Cup và để chức vô địch vào tay đối thủ[1], ngày 13 tháng 5 năm 2013, ông bị sa thải.[2]
Thống kê sự nghiệp huấn luyện viênSửa đổi
- Tính đến 13 tháng 5 năm 2012.[3]
Đội | Từ | Tới | Thành tích | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Thắng | Hòa | Thua | % thắng | |||||
Fiorentina | 2001 | 2002 | 44 | 16 | 14 | 14 | 36,36 | ||
Lazio | 2002 | 2004 | 102 | 49 | 32 | 21 | 48,04 | ||
Inter Milan | 2004 | 2008 | 226 | 140 | 60 | 26 | 61,95 | ||
Manchester City | 2009 | 2013 | 191 | 113 | 38 | 40 | 59,16 | ||
Galatasaray | 2013 | 2014 | 46 | 24 | 13 | 9 | 52,17 | ||
Inter Milan | 2014 | 2016 | 76 | 36 | 16 | 24 | 47,37 | ||
Zenit Saint Petersburg | 2017 | 2018 | 44 | 22 | 13 | 9 | 50,00 | ||
Ý | 2018 | Nay | 11 | 5 | 4 | 2 | 45,45 | ||
Tổng | 738 | 404 | 190 | 144 | 54,74 |
Phương pháp huấn luyệnSửa đổi
Phòng thủSửa đổi
Mặc dù Mancini là một tiền đạo trong sự nghiệp thi đấu của mình, ông đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng đội bóng từ hàng phòng thủ. Ông nhấn mạnh sự quan trọng của việc không để lọt lưới và đội bóng sẽ luôn có cơ hội để thắng. "Tôi thích chiến thắng 1-0", ông nói, "khi bạn không để lọt lưới và có các cầu thủ như Edin Džeko, Carlos Tévez hay David Silva, bạn có cơ hội chiến thắng tới 90%. Tôi thà thi đấu buồn tẻ trong 2-3 trận đấu với tỉ số 1-0. Nếu bạn xem các đội đoạt giải, họ đều thủng lưới rất ít bàn." Tuy nhiên, nhiều người cho rằng Mancini là huấn luyện viên "ưu tiên phòng thủ " chứ không phải là "ưu tiên thắng", một phong cách mà báo chí Anh quốc chỉ trích rất nhiều. Người khác thì cho rằng cách tiếp cận cẩn trọng và thực tế của ông chính là cái mà đội bóng thiếu và Mancini áp dụng phong cách để đảm bảo City có thể thi đấu tranh cúp thường xuyên. Dù Mancini có phòng thủ trong vài trận đấu tại Manchester City và đã nhận được chỉ trích, ông đã thừa kế một đội bóng từ Mark Hughes có khả năng và cơ hội trước khung thành nhưng lại có hàng hậu vệ yếu kém. Hàng tháng huấn luyện đội tuyển với cường độ cao, thậm chí còn bổ sung tuyển thủ trẻ Dedryck Doyata từ đội trẻ trong tuần vài tuần đầu tiên của Mancini đã giúp ông bắt đầu mùa giải thuận lợi. Khi vô địch giải Serie A mùa 2007–08, Inter thua ít bàn nhất, chính xác là 26 bàn ít hơn Juventus và Roma 11 bàn. Ở City, đội bóng của ông dần xây dựng danh tiếng là phòng thủ chặt chẽ và khó xuyên thủng. Trong mùa giải đầu tiên ở City, họ thua 33 bàn trong giải ngoại hạng, ít bàn thua nhất cùng với Chelsea và 18 trận không thủng lưới, cao nhất trong giải ngoại hạng mùa 2010-11.
Phương pháp đào tạoSửa đổi
Phương pháp đào tạo của Mancini bị một vài cầu thủ của chính City chỉ trích và đặc biệt là huấn luyện viên thể lực Raymond Verheijen - huấn luyện viên thể lực riêng cho Craig Bellamy. Các buổi huấn luyện mang tính cạnh tranh cao và dẫn tới các xung đột dẫn tới việc City được gọi với tên lóng là "Câu lạc bộ đánh nhau". Trong thời gian ở City, Mancini đã cố đóng dấu quyền lực lên các cầu thủ nổi loạn tỏ ý không hài lòng hay thi đấu không tốt và đã tuyên bố: "Nếu một cầu thủ không hài lòng, anh ta nên rời câu lạc bộ". Người ta cũng đồn rằng Mancini có quan hệ đóng băng với Craig Bellamy, nhà tâm lý của đội Jamie Murphy và Emmanuel Adebayor khi không được vào đội hình chính.
Cách giảm sức épSửa đổi
Mancini cũng sử dụng báo chí và truyền thông để giảm áp lực cho các cầu thủ. Sau khi thua Arsenal trong mùa giải 2011-12, City thua đội dẫn đầu Manchester United tới 8 điểm và chỉ còn 6 trận đấu. Mancini luôn tự tin trong các phỏng vấn sau trận đấu là Manchester United có thể bị vượt qua nhưng sau đó đã đổi ý và chỉ nói rằng United có cơ hội vô địch lớn hơn cho tới khi City vô địch.
Vinh danhSửa đổi
Khi là cầu thủSửa đổi
- Sampdoria
- Vô địch Serie A: 1991
- Vô địch Cúp Italia: 1985, 1988, 1989, 1994
- Vô địch UEFA Cup Winners' Cup (C2): 1990
- Á quân UEFA Cup Winners' Cup: 1989
- Vô địch Siêu Cúp Italia: 1991
- Á quân UEFA European Cúp (C1): 1992
- Lazio
- Vô địch Serie A: 2000
- Vô địch Cúp Italia: 1998, 2000
- Vô địch Siêu cúp Italia: 1998
- Vô địch UEFA Cup Winners' Cup: 1999
- Vô địch UEFA Super Cup: 1999
- Á quân UEFA Cup (C3): 1998
- Ý
- Hạng ba:Cúp Thế giới (FIFA World Cup): 1990
Khi làm Huấn luyện viênSửa đổi
- Fiorentina
- Vô địch Coppa Italia: 2001
- Lazio
- Vô địch Coppa Italia: 2004
- Bán kết UEFA Cup: 2003
- Internazionale
- Vô địch Serie A: 2006, 2007, 2008
- Vô địch Cúp Italia: 2005, 2006
- Vô địch Siêu cúp Italia: 2005, 2006
- Manchester City
- Vô địch Ngoại hạng Anh (Premier League): 2012
- Á quân Ngoại hạng Anh: 2013
- Vô địch FA Cup: 2011
- Á quân FA Cup: 2013
- Vô địch Dublin cúp: 2011
- Vô địch Siêu cúp Anh: 2012
Galatasaray SK
Vô địch Cúp Thổ Nhĩ Kỳ: 2014
Tứ kết Champions League: 2014
Giải thưởngSửa đổi
- Guerin d'Oro: 1988, 1991
- Serie A Footballer of the Year: 1997
- Italian Footballer of the Year: 1997
- Premier League Manager of the Month: December 2010,[4] October 2011[5]
Chú thíchSửa đổi
- ^ McNulty, Phil (ngày 11 tháng 5 năm 2013). “Wigan stun Man City in FA Cup”. London: BBC Sport. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013.
- ^ “Mancini sacked as Man City manager”. BBC Sport. Truy cập 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ Managerial statistics
- ^ “Nasri and Mancini receive Barclays awards”. premierleague.com. (FA Premier League). Ngày 7 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2011.
- ^ “Manchester City boss Roberto Mancini named Manager of the Month”. Manchester Evening News (MEN Media). Ngày 4 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011.
Liên kết ngoàiSửa đổi
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Roberto Mancini. |
- Roberto Mancini trên Instagram
- Roberto Mancini tại Goal.com
- Roberto Mancini tại Mcfc.co.uk tại Wayback Machine (lưu trữ 2013-03-02)
- Sự nghiệp huấn luyện viên của Roberto Mancini tại Soccerbase
- Roberto Mancini tại Tuttocalciatori.net (tiếng Ý)
Giải thưởng và thành tích | ||
---|---|---|
Tiền vị Carlo Ancelotti |
Huấn luyện viên vô địch Cúp FA 2010-11 |
Kế vị Roberto Di Matteo |
Tiền vị Alex Ferguson |
Huấn luyện viên vô địch Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2011-12 |
Kế vị Alex Ferguson |