Scaphochlamys anomala

loài thực vật

Scaphochlamys anomala là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Johannes Gottfried Hallier mô tả khoa học đầu tiên năm 1898 dưới danh pháp Kaempferia anomala.[3] Năm 2010, R. J. Searle chuyển nó sang chi Scaphochlamys.[2][7]

Scaphochlamys anomala
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Plantae
(không phân hạng)Angiospermae
(không phân hạng)Monocots
(không phân hạng)Commelinids
Bộ (ordo)Zingiberales
Họ (familia)Zingiberaceae
Phân họ (subfamilia)Zingiberoideae
Tông (tribus)Zingibereae
Chi (genus)Scaphochlamys
Loài (species)S. anomala
Danh pháp hai phần
Scaphochlamys anomala
(Hallier f.) R.J.Searle, 2010[2]
Danh pháp đồng nghĩa
  • Kaempferia anomala Hallier f., 1898[3]
  • Gastrochilus anomalus (Hallier f.) K.Schum., 1904[4]
  • Gastrochilus hallieri Ridl., 1906 nom. inval.[5]
  • Boesenbergia anomala (Hallier f.) Schltr., 1913[6]

Mẫu định danh sửa

Mẫu định danh do Johannes Gottfried Hallier thu thập ngày 6 tháng 5 năm 1894 trong rừng rậm ở chân núi Liang Gagang (Bukit Liangkungkam), tọa độ khoảng 0°4′1″B 113°11′0″Đ / 0,06694°B 113,18333°Đ / 0.06694; 113.18333, miền trung đảo Borneo, nay thuộc tỉnh Tây Kalimantan, Indonesia.[8]

Phân bố sửa

Loài này có ở miền trung đảo Borneo, trong rừng rậm nhiệt đới ở chân núi Liang Gagang, ven sông Mandai, chi lưu tả ngạn thượng nguồn sông Kapuas, tỉnh Tây Kalimantan, Indonesia.[1][3][4][9]

Mô tả sửa

Cây thảo thân rễ lâu năm. Rễ hình chỉ, màu trắng, không củ, thưa nhánh, phủ lông tơ mềm màu trắng; thân bò lan, tại các mắt có rễ, phân nhánh, non màu xanh lục, ánh thủy tinh, già màu xương, bóng, bẹ ngắn hình trứng, nhọn, khô xác, gân song song; thân giả mọc thẳng, ngắn, lá 1-2; bẹ lá dài, hình trụ, nhọn, màu xanh lục sẫm, gân màu ánh lục, song song, thẳng, mờ đục, máp dạng màng màu ánh lục, khi già nhạt màu và khô xác, gân song song; cuống lá dài, mọc thẳng và lệch, cứng, mỏng, gần nhẵn, phần trên có rãnh sâu, màu xanh lục, gần mờ đục, gân song song, thẳng, màu ánh lục, phiến lá hình trứng-hình mũi mác, đáy nhọn, đỉnh nhọn uốn ngược, phần trên màu xanh cỏ, đồng nhất màu, gân giữa với ~8 gân bên thẳng, thanh mảnh; mặt dưới nhạt màu hơn, màu xanh xám, nhiều điểm mạch hỗ nhỏ mịn, hơi bóng màu ánh bạc, gân giữa có gờ rõ nét, màu xanh lục sẫm, gân con nhiều, song song, màu xanh lục sẫm, thẳng, gân giữa với lông nhỏ mỏng áp ép; cụm hoa đơn độc trên đỉnh thân giả, không cuống, bẹ khô xác, dạng tổng bao, ít hoa; các hoa nhỏ; ống tràng mỏng, dài, hơi dài hơn bẹ, hình trụ, màu trắng ánh vàng; cánh hoa 3, dài bằng nhau, hình mũi mác, có nắp, nhọn, màu trắng, gần trong suốt, mặt trong 3 gân song song, thẳng, khó thấy; nhị lép bên 3, dạng cánh hoa, có lông rung thưa và nhỏ mịn; 2 nhị lép sau nhỏ, khoảng 2 lần nhỏ hơn cánh hoa, hình mũi mác, cong, nhọn, màu ánh lục, gân 3, thẳng, trong suốt; nhị lép trước (cánh môi) hơi lớn hơn cánh hoa, chẻ 2 thùy sâu, màu trắng, gần trong suốt, vuốt gần hình nêm, phần trên gần khe chẻ có đốm màu vàng, các thùy hình trứng ngược rộng, gân 4 gần song song, gần trong suốt, thẳng; chỉ nhị ngắn; bao phấn hình trứng ngược, mọc thẳng, mép cuốn trong xung quanh đỉnh vòi nhụy, đầu nhụy hình nón ngược, rậm lông, cắt cụt, màu trắng, mô vỏ kết nối màu vàng nhưng không nở rộng vượt trội. Cành và lá cao tới 20 cm; bẹ thân dài ~8 mm, cành dài tới trên 5 cm; cuống lá dài tới 7 cm; phiến lá dài tới 11 cm, rộng 5 cm; ống tràng hoa dài 15 mm, rộng ~1 mm, bẹ vượt trên ~6 mm; cánh hoa dài ~7 mm, rộng tại gốc ~2–3 mm; nhị lép bên phía sau 2, dài ~4 mm, rộng trên 1 mm, vuốt phía trước dài ~4 mm, rộng ~3 mm, các thùy dài ~4 mm và rộng gần bằng; nhị dài ~3 mm, dày ~1 mm.[3][10]

Nhóm Anomala sửa

Nhóm Anomala được xác định là có cụm hoa lỏng lẻo, các lá bắc dạng màng sắp xếp xoắn ốc, các lá bắc con tương tự nhưng hầu hết là dài hơn lá bắc, lá bắc con thứ nhất có 2 gờ lưng rất mờ nhạt và khó thấy, hoa nhỏ dài ~2,5 cm, với cánh môi màu trắng dài ~1 cm, vỏ quả ngoài có u/bướu nhỏ. Nhóm Anomala bị giới hạn ở phía tây của đới khâu Đường Lupar chạy theo hướng đông đông nam qua Engkilili và Lubok Antu. Gồm bảy loài là S. anomala, S. gracilipes, S. iporii, S. lanjakensis, S. penyamar, S. salahuddiniana, S. scintillans.[10]

Chú thích sửa

  •   Tư liệu liên quan tới Scaphochlamys anomala tại Wikimedia Commons
  •   Dữ liệu liên quan tới Scaphochlamys anomala tại Wikispecies
  • Vườn thực vật hoàng gia Kew; Đại học Harvard; Australian Plant Name Index (biên tập). “Scaphochlamys anomala”. International Plant Names Index.
  1. ^ a b Olander, S.B. (2019). Scaphochlamys anomala. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2019: e.T117430683A124284392. doi:10.2305/IUCN.UK.2019-3.RLTS.T117430683A124284392.en. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ a b R. J. Searle, 2010. The genus Scaphochlamys (Zingiberaceae – Zingibereae): a compendium for the field worker. Edinburgh Journal of Botany 67(1): 75-121, doi:10.1017/S0960428609990254.
  3. ^ a b c d Hallier J. G., 1898. Neue und bemerkenswerte pflanzen aus dem Malaiisch-Papuanischen inselmeer: Kaempferia (Monolophus) anomala. Bulletin de l’Herbier Boissier 6(5): 357-359.
  4. ^ a b Schumann K. M., 1904. IV. 46. Zingiberaceae: Gastrochilus anomalus trong Engler A., 1904. Das Pflanzenreich Heft 20: 92.
  5. ^ Henry Nicholas Ridley, 1906. Scitamineae of Borneo: Gastrochilus hallieri. Journal of the Straits Branch of the Royal Asiatic Society 46: 233.
  6. ^ Friedrich Richard Rudolf Schlechter, 1913. LIV. Die Gattungen Gastrochilus Don und Gastrochilus Wall.: Boesenbergia anomala. Repertorium Specierum Novarum Regni Vegetabilis. Centralblatt für Sammlung und Veroffentlichung von Einzeldiagnosen neuer Pflanzen 12: 315.
  7. ^ The Plant List (2010). Scaphochlamys anomala. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2021.
  8. ^ Scaphochlamys anomala trong Zingiberaceae Resource Centre. Tra cứu ngày 21-4-2021.
  9. ^ Scaphochlamys anomala trong Plants of the World Online. Tra cứu ngày 6-4-2021.
  10. ^ a b Ooi Im Hin, Meekiong Kalu & Wong Sin Yeng, 2017. A review of Scaphochlamys (Zingiberaceae) from Borneo, with description of eleven new species. Phytotaxa 317(4): 231–279, doi:10.11646/PHYTOTAXA.317.4.1.