Tĩnh Hải quân

Tên gọi Việt Nam trước thời kỳ tự chủ

Tĩnh Hải (chữ Hán: 靜海) hay Tĩnh Hải quân (chữ Hán: 靜海軍) là tên gọi một đơn vị phiên trấn do Tiết độ sứ quản lý, được thiết lập từ thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, tương ứng với thời Bắc thuộc lần 3 trong lịch sử Việt Nam. Phần lớn địa giới của Tĩnh Hải nằm ở miền Bắc Việt Nam ngày nay. Tên gọi Tĩnh Hải vẫn được sử dụng trên danh nghĩa sau khi Việt Nam giành được độc lập, cụ thể tới hết thời loạn 12 sứ quân, kéo dài 102 năm (866-968).

Tên gọi Việt Nam Map of Vietnam showing the conquest of the south (nam tiến, 1069-1757).
2879–2524 TCN Xích Quỷ (truyền thuyết)
Thế kỷ 7–258 TCN Văn Lang
258-179 TCN Âu Lạc
204–111 TCN Nam Việt
111 TCN–40 CN Giao Chỉ
40–43 Lĩnh Nam
43–203 Giao Chỉ
203–544 Giao Châu
544–602 Vạn Xuân
602–679 Giao Châu
679–757 An Nam
757–766 Trấn Nam
768–866 An Nam
866–967 Tĩnh Hải quân
968–1054 Đại Cồ Việt
1054–1400 Đại Việt
1400–1407 Đại Ngu
1407–1427 Giao Chỉ
1428–1804 Đại Việt
1804–1839 Việt Nam
1839–1945 Đại Nam
1887–1954 Đông Dương
(Bắc/Trung/Nam Kỳ)
từ 1945 Việt Nam
Bản mẫu chính
Sinh vật định danh
Lịch sử Việt Nam

Thay đổi tên gọi

sửa

Từ đầu cho tới giữa thời thuộc Đường, nhà Đường gọi Việt NamAn Nam đô hộ phủ, Trấn Nam Đô hộ phủ, với người đứng đầu là các quan Đô hộ hoặc Kinh lược sứ. Đây là sự phân biệt giữa trấn nội thuộc và ngoại thuộc của nhà Đường vì các đơn vị hành chính tại chính quốc Nhà Đường khi đó là các "quân" với người đứng đầu có chức danh là Tiết độ sứ[1].

 
Thời[liên kết hỏng] nhà Hậu Lương (907-923)
  Tấn (晉), tiền thân của Hậu Đường
  Tĩnh Hải quân tiết độ sứ (靜海軍節度使)

Năm 866, sau 3 năm bị quân Nam Chiếu chiếm đóng, An Nam đô hộ phủ trở về tay Nhà Đường vì tướng Cao Biền có công đánh dẹp. Đường Ý Tông theo thỉnh cầu của Cao Biền, thăng An Nam đô hộ phủ làm Tĩnh Hải quân. Điều này tương tự như việc Hán Hiến Đế đã làm năm 203 theo tờ biểu của thứ sử Trương Tân và Thái thú quận Giao ChỉSĩ Nhiếp, cho bộ Giao Chỉ được lập thành Giao Châu, coi ngang hàng như các đơn vị hành chính ở Trung Quốc.[2] Lúc này An Nam đô hộ phủ trở thành Tĩnh Hải quân cũng giống như các "quân" (đơn vị hành chính) ở Trung Quốc với người đứng đầu có chức danh là Tiết độ sứ.

Lịch sử

sửa

Thời thuộc Đường

sửa

Sau loạn An Sử, nhà Đường tuy diệt được Đại Yên nhưng trên thực tế không còn mạnh như trước. Các phiên trấn phía đông không tuân phục chính quyền trung ương, các vùng xa như An Nam đô hộ phủ thường xuyên bị nước Nam Chiếu (vùng Vân Nam) uy hiếp.

Năm 863, Nam Chiếu chiếm được An Nam đô hộ phủ, tướng Sái Tập Nhà Đường tử trận. Cao Biền được điều sang phải mất 3 năm mới hoàn toàn đánh dẹp được Nam Chiếu. Để khôi phục và củng cố quyền hành tại An Nam đô hộ phủ, Đường Ý Tông thăng An Nam đô hộ phủ làm Tĩnh Hải quân, cho Cao Biền làm Tiết độ sứ[3].

Sau Cao Biền, các Tiết độ sứ kế tục là Cao Tầm, Tăng Cổn, Tạ Triệu, An Hữu Quyền, Chu Toàn Dục và Độc Cô Tổn.

Thời tự chủ

sửa

Cuối thế kỷ 9, thời vua Đường Hy Tông nổ ra khởi nghĩa Hoàng Sào. Khởi nghĩa bị tiêu diệt nhưng các quân phiệt cũng nhân đó gây nội chiến và cát cứ công khai. Nhà Đường bị quyền thần Chu Ôn khống chế.

Năm 905, Chu Toàn Trung ghét Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân Độc Cô Tổn là người không cùng cánh, bèn đày ra đảo Hải Nam và giết chết. Trong lúc nhà Đường chưa kịp cử quan cai trị mới sang trấn nhậm, một hào trưởng người Việt là Khúc Thừa Dụ đã chiếm lấy thủ phủ Đại La[4], tự xưng là Tiết độ sứ. Chu Toàn Trung đang mưu cướp ngôi nhà Đường, đã nhân danh vua Đường Ai Đế thừa nhận Khúc Thừa Dụ. Từ đó người Việt bắt đầu khôi phục quyền tự chủ.

Sau Khúc Thừa Dụ, con là Khúc Hạo thực hiện cải cách hành chính, củng cố quyền hành ở Tĩnh Hải quân. Cả thảy toàn bộ Tĩnh Hải quân được chia thành 314 giáp.

Nhà Hậu Lương, trước đây vì mới cướp ngôi nhà Đường, phương Bắc nhiều biến cố nên thừa nhận Khúc Hạo làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân năm 907. Nhưng qua năm sau, vua Hậu Lương là Chu Ôn lại phong cho Tiết độ phó sứ ở Quảng ChâuLưu Ẩn kiêm chức "Tĩnh Hải quân tiết độ, An Nam đô hộ". Điều đó có nghĩa là người Trung Quốc vẫn muốn chiếm lại Việt Nam[5].

Năm 911, Lưu Ẩn chết, em là Lưu Nghiễm lên thay. Sự cai trị vững vàng của Khúc Hạo khiến họ Lưu ở Quảng Châu không dám nhòm ngó tới phương nam. Năm 917, Lưu Nghiễm tự xưng đế, lập ra nước Nam Hán, cát cứ vùng Ngũ Lĩnh không thần phục nhà Hậu Lương nữa.

Cuối năm 917 Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ lên thay. Khúc Thừa Mỹ chủ trương kết thân với nhà Hậu Lương ở Trung Nguyên. Năm 919, ông sai sứ sang Biện Kinh xin tiết việt của nhà Hậu Lương. Vua Lương là Mạt đế Chu Hữu Trinh, bấy giờ bận đối phó với các nước lớn ở Trung Nguyên nên ban Tiết Việt cho Khúc Thừa Mỹ và phong ông làm Tiết độ sứ. Được sự hậu thuẫn của nhà Hậu Lương, Thừa Mỹ chủ quan cho rằng uy thế của nhà Lương rộng lớn ở Trung Nguyên có thể kìm chế được Nam Hán nhỏ hơn ở Quảng Châu. Ông công khai gọi nước Nam Hán là "ngụy đình".

Năm 930, vua Nam Hán là Lưu Nghiễm điều quân đánh Tĩnh Hải quân. Khúc Thừa Mỹ không chống nổi, bị bắt mang về Phiên Ngung.

Năm 931, bộ tướng của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ mang quân đánh đuổi tướng Nam Hán là Lý Tiến và diệt viện binh của Trần Bảo, giành lại thành Đại La. Ông tự xưng là Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân.

Năm 937, Dương Đình Nghệ bị nha tướng Kiều Công Tiễn phản bội, giết chết và cướp quyền, tự xưng Tiết độ sứ.

 
Tranh ghép đá mô phỏng trận Bạch Đằng 938

Năm 938, con rể Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền từ Ái châu tập hợp lực lượng ra đánh chiếm thành Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn. Cuối năm đó Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán sang đánh Tĩnh Hải quân với danh nghĩa giúp Kiều Công Tiễn tại trận Bạch Đằng.

 
Thời[liên kết hỏng] nhà Hậu Tấn (936-947) và nhà Hậu Hán (947-950)Sau năm 945, lãnh thổ nước Mân trước đây bị phân chia giữa Nam Đường, Ngô Việt và Thanh Nguyên quân

Thời Ngô

sửa

Ngô Quyền bỏ danh hiệu Tiết độ sứ, xưng là Ngô vương. Năm 944, Ngô Quyền mất. Em vợ Ngô vương là Dương Tam Kha giành ngôi vua, con Ngô vương là Ngô Xương Ngập phải bỏ trốn.

Dương Tam Kha nhận con thứ Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con nuôi. Năm 950, nhân được sai cầm quân đi dẹp loạn, Ngô Xương Văn mang quân về lật đổ Dương Tam Kha, giành lại ngôi cho họ Ngô. Xương Văn đón anh Xương Ngập về cùng trị nước.

Năm 954, Ngô Xương Ngập chết. Ngô Xương Văn một mình làm vua. Năm 965, trong khi đi đánh quân nổi dậy ở Thái Bình, Ngô Xương Văn bị trúng tên tử trận.

Chấm dứt

sửa

Nhà Ngô mất, các tướng lĩnh cũ của nhà Ngô và các hào trưởng địa phương cùng nhau nổi dậy chiếm giữ đất đai cát cứ, sử gọi là thời loạn 12 sứ quân.

Thủ lĩnh cát cứ ở Hoa Lư từ thời Ngô Xương Ngập là Đinh Bộ Lĩnh sau khi liên kết với sứ quân Trần Lãm (một trong 12 sứ quân) đã đánh dẹp các sứ quân còn lại. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất cả nước, tự xưng làm hoàng đế, tức là vua Đinh Tiên Hoàng. Tên gọi Tĩnh Hải quân chấm dứt sau 102 năm khi vua Đinh đặt tên nước là Đại Cồ Việt[6][7].

Lãnh thổ

sửa

Trong những năm cuối thời thuộc Đường và thời Tự chủ, lãnh thổ Tĩnh Hải quân gồm 12 châu là[8]:

  • Giao
  • Lục
  • Phúc Lộc
  • Phong
  • Thang
  • Trường
  • Chi
  • Vũ Nga
  • Vũ An
  • Ái
  • Hoan
  • Diễn

Lãnh thổ 12 châu này bao gồm Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam, kéo dài tới phía bắc Hoành Sơn[9], thêm một phần phía tây nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc hiện nay[10].

Tuy nhiên sang thời nhà Ngô (939-967), lãnh thổ Tĩnh Hải quân chỉ còn 8 châu là[11][12]:

  • Giao
  • Lục
  • Phúc Lộc
  • Phong
  • Trường
  • Ái
  • Hoan
  • Diễn

Bốn châu: Thang, Chi, Vũ Nga và Vũ An thuộc về Nam Hán. Việc thu hẹp lãnh thổ phía bắc này không được sử sách ghi chép rõ. Theo Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời: 4 châu này bị Nam Hán chiếm, nhưng không rõ vào thời điểm nào (trước hay sau trận Bạch Đằng)[12][13]. Nguyễn Khắc Thuần trong Thế thứ các triều vua Việt Nam cho rằng: Ngô Quyền bàn giao 4 châu này cho Nam Hán "để tiện việc phòng thủ"[11].

Lãnh thổ nước Đại Cồ Việt của nhà Đinh kế tục nhà Ngô trở về sau nằm trên 8 châu này[12], từ miền Bắc Việt Nam đến Hoành Sơn, nghĩa là hết địa giới Hà Tĩnh hiện nay[14]. Kể từ khi kết thúc nghìn năm Bắc thuộc đến trước năm 1069 (thời điểm Lý Thánh Tông lấy 3 châu của Chiêm Thành), lãnh thổ Việt Nam thời họ Khúc là rộng hơn cả[15].

Trong quan hệ ngoại giao đời sau

sửa

Tên gọi Tĩnh Hải quân vẫn được các triều đình phương Bắc dùng làm một tên gọi Việt Nam. Khi phong chức cho các vua hay hoàng tử nhà Đinh, nhà Tiền Lênhà Lý của Việt Nam, các vua Tống vẫn dùng tước hiệu gắn với địa danh Tĩnh Hải quân:

  • Năm 973 nhà Tống sai sứ sang phong cho Đinh Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương, hoàng tử Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái sư Tĩnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ[6].
  • Năm 986, nhà Tống sai Lý Nhược Chuyết, Lý Giác mang chế sách sang phong cho Lê Hoàn làm An Nam đô hộ Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ kinh triệu quận hầu[6].
  • Năm 1007, nhà Tống phong Lê Long Đĩnh làm Giao Chỉ quận vương, lĩnh Tĩnh Hải quân tiết độ sứ[6].
  • Năm 1010, nhà Tống phong Lý Thái Tổ làm Giao Chỉ quận vương, lĩnh Tĩnh Hải quân tiết độ sứ[16].

Từ Lý Thái Tông trở về sau, trong danh hiệu các vua Tống phong cho vua Đại (Cồ) Việt chỉ có Giao Chỉ quận vương, không nhắc tới Tĩnh Hải quân.

  • Năm 1262, nhà Tống phong Trần Thánh Tông làm Tĩnh Hải quân Tiết độ quan sát xử trí sứ, Kiểm hiệu thái uý kiêm Ngự sử đại phu, thượng trụ quốc, An Nam quốc vương hiệu trung thuận hóa công thần[17]

Những người đứng đầu

sửa

Từ thời thuộc Đường qua thời Tự chủ tới thời nhà Ngô, những người đứng đầu Tĩnh Hải quân gồm có[18]:

Thứ tự Thời kỳ Chức danh, danh hiệu Tên họ Niên đại
1 Thuộc Đường Tiết độ sứ Cao Biền 864-868
2 Thuộc Đường Tiết độ sứ Cao Tầm 868-878
3 Thuộc Đường Tiết độ sứ Tăng Cổn 878-880
4 Thuộc Đường Tiết độ sứ Cao Mậu Khanh 882-883
5 Thuộc Đường Tiết độ sứ Tạ Triệu 884-?
6 Thuộc Đường Tiết độ sứ An Hữu Quyền 897-900
7 Thuộc Đường Tiết độ sứ Chu Toàn Dục 900-905
8 Thuộc Đường Tiết độ sứ Độc Cô Tổn 905
9 Tự chủ Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ 905-907
10 Tự chủ Tiết độ sứ Khúc Hạo 907-917
11 Tự chủ Tiết độ sứ Khúc Thừa Mỹ 918-923 (hoặc 930)
12 Thuộc Nam Hán Thứ sử Lý Tiến 923 (hoặc 930)-931
13 Tự chủ Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ 931-937
14 Tự chủ Tiết độ sứ Kiều Công Tiễn 937-938
15 Nhà Ngô Ngô vương Ngô Quyền 939-944
16 Nhà Ngô Dương Bình vương Dương Tam Kha 944-950
17 Nhà Ngô Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập 951-954
18 Nhà Ngô Nam Tấn vương Ngô Xương Văn 951-965
19 Loạn 12 sứ quân Tước công Các sứ quân 966-967

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 281
  2. ^ Viện Sử học (2001), sách đã dẫn, tr 31
  3. ^ Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 292
  4. ^ Tống Bình cũ, từ khi Cao Biền sang trấn nhậm xây lại và đổi tên gọi
  5. ^ Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 293
  6. ^ a b c d Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ quyển 1
  7. ^ Đào Tố Uyên, sách đã dẫn, tr 26
  8. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 93, 103. Nếu kể cả các châu Kimi là 13
  9. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 102
  10. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 102-103
  11. ^ a b Nguyễn Khắc Thuần, sách đã dẫn, tr 41
  12. ^ a b c Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 111
  13. ^ Nguyễn Khắc Thuần (2003), sách đã dẫn, tr 92
  14. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 106
  15. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 111, 122
  16. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ quyển 2
  17. ^ Tống sử, Lý Tông bản kỷ
  18. ^ Viện Sử học (2001), sách đã dẫn, tr 382-383