Tục ngữ Việt Nam

bài viết danh sách Wikimedia

Tục ngữ Việt Nam là những câu nói hoàn chỉnh, đúc kết kinh nghiệm qua thời gian của người Việt Nam về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội. Tục ngữ thiên về trí tuệ nên thường được ví von là "trí khôn dân gian". Trí khôn đó rất phong phú mà cũng rất đa dạng nhưng lại được diễn đạt bằng ngôn từ ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục ngữ là văn học nói dân gian nên thường được nhân dân vận dụng trong đời sống sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội hay hẹp hơn như lời ăn tiếng nói và khuyên răn.

    Văn học dân gian:

    Thần thoại
    Truyền thuyết
    Cổ tích
    Truyện cười
    Ngụ ngôn
    , Tục ngữ
    Thành ngữ
    Câu đố
    Ca dao
    Văn học dân gian dân tộc thiểu số
    Sân khấu cổ truyền

    Văn học viết (theo thời kỳ):

    Văn học đời Tiền Lê
    Văn học đời Lý
    Văn học đời Trần
    Văn học đời Lê Sơ
    Văn học đời Mạc
    Văn học đời Lê trung hưng
    Văn học đời Tây Sơn
    Văn học thời Nguyễn
    Văn học thời Pháp thuộc
    Văn học thời kỳ 1945-1954
    Văn học thời kỳ 1954-1975
    Văn học thời kỳ sau 1975

    Trào lưu sáng tác, hội đoàn, nhóm tác giả:

    Tao Đàn nhị thập bát tú
    Tao đàn Chiêu Anh Các
    Ngô gia văn phái
    Mạc Vân thi xã
    Hồng Sơn văn phái
    Phong trào Thơ mới
    Tự Lực Văn Đoàn
    (Trường phái văn chương Tự Lực)
    Nhóm xuất bản Tân Dân
    Nhóm Bàn Thành Tứ Hữu
    (Trường thơ Loạn)
    Nhóm Xuân Thu Nhã Tập
    Nhóm Dạ Đài
    Nhóm Tri Tân
    Nhóm Thanh Nghị
    Nhóm xuất bản Hàn Thuyên
    Nhân Văn – Giai Phẩm
    Nhóm Sáng Tạo
    Hội Nhà văn Việt Nam
    Văn đoàn độc lập Việt Nam

    Khác:

    Thơ chữ Nôm
    Thơ Hàn luật
    Ngâm khúc
    Truyện thơ Nôm
    Thơ lục bát
    Song thất lục bát
    Thơ tự do
    Trường ca hiện đại
    Kịch thơ Việt Nam
    Truyện truyền kỳ Việt Nam
    Tiểu thuyết Việt Nam
    Tiểu thuyết Quốc ngữ Nam Bộ
    Tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn
    Văn chương nhóm xuất bản Tân Dân
    Văn học trung đại Việt Nam
    Văn học tiền chiến Việt Nam
    Văn học chữ Quốc ngữ
    Văn học Quốc ngữ Nam Bộ
    Văn học cách mạng - kháng chiến Việt Nam
    Văn học Nam tuyến
    Văn học Việt Nam hải ngoại
    Văn học hậu chiến Việt Nam
    (Văn học thời kỳ Đổi Mới)

    Xem thêm:

    Thể loại:Văn học Việt Nam

Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác; được tách ra từ tác phẩm văn học dân gian hoặc ngược lại; được rút ra tác phẩm văn học bằng con đường dân gian hóa những lời hay ý đẹp hoặc từ sự vay mượn nước ngoài.

Giữa hình thức và nội dung, tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đennghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý. Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ.

Đa số tục ngữ đều có vần, gồm hai loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơ ca... Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục ngữ. Hình thức đối: đối thanh, đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán, nhưng cũng có thể có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán.

Các kiểu suy luận: liên hệ tương đồng, liên hệ không tương đồng, liên hệ tương phản, đối lập, liên hệ phụ thuộc hoặc liên hệ nhân quả.

Đầu tiên là các bản ghi chép tục ngữ bằng chữ Nôm vào thế kỷ 19 như Nam phong ngữ ngạn thi (南風語諺詩) của Đình Thái, Đại Nam Quốc Túy (大南國粹) của Ngô Giáp Đậu.

Bản ghi tục ngữ bằng chữ quốc ngữTục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn của Huỳnh Tịnh Của (1897), Tục ngữ cách ngôn của Hàn Thái Dương (1920).

Một số bản sưu tập, chú thích nghĩa và dịch tục ngữ Việt Nam sang tiếng Pháp như Tục ngữ An Nam dịch sang tiếng Tây của V. Barbier (Triệu Hoàng Hòa), Đông Tây ngạn ngữ cách ngôn của H. Délétie và Nguyễn Xán (1931).

Một số bản khác như Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1942), Tục ngữ dân ca Mường Thanh Hóa của Minh Hiệu sưu tầm (1970), Ca dao, ngạn ngữ Hà Nội do Triều Dương sưu tầm và biên soạn (1971), Tục ngữ Thái (1978), Tục ngữ ca dao dân ca của Vũ Ngọc Phan (1956), Tục ngữ Việt Nam của Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Chi (1975).

Từ nguyênSửa đổi

Chữ Nôm: 俗語越南.

Chú thíchSửa đổi

Đọc thêmSửa đổi